Thứ Ba, 28 tháng 9, 2010

VIỆT CỘNG VÀ SỰ THẬT

Về Vài Thắc Mắc Của "Giới Trẻ"
Trần Chung Ngọc
26 tháng 9, 2010
Ngày hôm qua, ngày 25 tháng 9 Tây, tôi nhận được từ một người bạn, bài “Đâu Là Sự Thật? Thắc mắc của các sinh viên trẻ đang sống trong lòng VNXHCN” trong đó giới trẻ (??) có nêu vài thắc mắc, nói là nhận được trong hộp thư của anh ta ta, và đề nghị tôi giúp “giới trẻ” biết “đâu là sự thật?”.
Đọc bài này tôi có cảm tưởng đó là bài của “giới già” của chế độ cũ cải lão hoàn đồng, vì những câu hỏi “giới trẻ “ đặt ra là những câu “giới già” chống Cộng đã đặt ra từ lâu, nhưng chẳng có ai buồn trả lời vì không đáng để trả lời trước những câu hỏi chỉ chứng tỏ sự hiểu biết thấp kém của người hỏi. Nay, “giới trẻ” lại nhặt lại những câu hỏi trên và đặt cho các chú, các bác những thắc mắc mà thật ra nếu hiểu biết chút ít về lịch sử thì chẳng có gì phải thắc mắc cả.
Những thắc mắc “giới trẻ” đặt cho, nguyên văn: “các bác, các chú, là những người đã và đang phục vụ cho đảng và nhà nước Việt Nam và những người vẫn khư khư cho rằng chiến tranh Việt Nam là cần thiết để “giải phóng miền Nam” thoát khỏi sự “kìm kẹp của Mỹ, Ngụy” v…v…” vì vậy có người đã lên tiếng thách thức từ lâu: “đố có thằng CS nào dám trả lời những câu hỏi này“.
Tôi không phải là một “thằng CS”, nhưng vì đã nghiên cứu nhiều về cuộc chiến Việt Nam, cho nên tôi nghĩ tôi có thể tạm trả lời những thắc mắc của “giới trẻ”. Xin đừng hiểu lầm là tôi trả lời thay cho “các chú’ các bác”, mà đây chỉ là làm sáng tỏ vài điều trong lãnh vực học thuật, để giúp cho “giới trẻ” hiểu biết hơn. Với danh nghĩa của một bác, năm nay bác đã quá tuổi “cổ lai hy” 10 năm rồi, bác nghĩ, tuy với sự hiểu biết không phải là toàn trí của Thượng đế, nghĩa là cái gì cũng biết, bác cũng có thể tạm trả lời những thắc mắc của “giới trẻ” sau đây.
۞۞۞
Câu hỏi  Giới trẻ chúng tôi, thành phần lớn lên sau chiến tranh không hiểu biết lý do tại sao đã có cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1954-1975), mà báo chí ngoại quốc thường gọi là chiến tranh Việt Nam (Vietnam War).
Chúng tôi đã được học tập dưới hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) về lý do tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam qua những cụm từ như “chế độ khát máu Mỹ-Diệm”, ”miền Nam bị Mỹ, Nguỵ kìm kẹp”, “đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào”, “ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ”, “giải phóng miền Nam” v.v…
Nhưng ngày nay, với sự phổ biến của công nghệ thông tin, chúng tôi đã biết nhiều hơn trước. Về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường.
TCN: Vấn đề ở đây là “giới trẻ” đọc những thông tin thuộc loại nào, ở đâu, thông tin đó có đáng tin cậy không, và dựa trên những sự kiện lịch sử nào. “Giới trẻ” không nói ra nhưng qua đoạn trên với cụm từ như “chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường”, chúng ta cũng biết đó là những thông tin thuộc loại nào. Vấn đề mà giới trẻ nên tìm hiểu là “Chế độ Mỹ-Diệm có khát máu không?”; “Miền Nam có bị Mỹ, Ngụy, kìm kẹp không”; và “Miền Nam có cần phải giải phóng không” và “giải phóng” khỏi cái gì, tại sao lại phải giải phóng?. “Giới trẻ” đã biết nhiều hơn trước về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, nhưng không hề nêu ra những lý do đó để chứng minh là những điều học trong nhà trường (Bolsa, San Jose, Sydney v…v….) “hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường”, cho nên độc giả không thể biết đó là những lý do nào, có đúng hay không. Sự thực lịch sử đã rõ: Chỉ có một lý do căn bản: đó là cuộc chiến chống xâm lăng, và chế độ Diệm là do Mỹ dựng lên để phá Hiệp Định Geneva, ngăn cản sự thống nhất đất nước của Việt Nam. Chắc “giới trẻ” không tin hoặc không chịu nhận như vậy. Nhưng không tin và không chịu nhận là một chuyện còn sự thật lịch sử ra sao lại là một chuyện khác. Này nhé:
Mỹ hiện diện ở Việt Nam với tư cách gì? Giáo sư Mortimer Cohen đã có một nhận định rất chính xác về những lý do biện minh cho sự can thiệp vào Việt Nam của Mỹ trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 1979, trang 208 (1):
Trong 21 năm bị lôi cuốn vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa ra những “lý do” về những hành động của mình. Những lý do này vô giá trị. Lý do duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn chận vùng này khỏi rơi vào tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc cách mạng nội bộ... Và đó cũng đủ để gọi là lý do.
Thêm nhiều lý do. Và thêm nhiều lý do nữa. Chúng mọc lên như măng tháng 5. Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, những lý do có thể chứa đầy một cuốn sách. Không lý do nào chính đáng, hợp lý.
Nếu Mỹ không có lý do gì chính đáng hay hợp lý để can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam thì bản chất sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam là gì? Các trí thức Mỹ đã có câu trả lời. Trước hết là của Daniel Ellsberg, một nhân viên cao cấp trong Tòa Năm Góc (The Pentagon):
Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, vậy mà 27 năm sau, Daniel Ellsberg còn viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:
Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.
(In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression, American aggression.)
Thứ đến là nhận định của hai Giáo sư ở đại học Iowa, John Carlos Rowe và Rick Berg, trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), trang 28-29: (2)
Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, [chế độ Ngô Đình Diệm] cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm… Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương.
“Giới trẻ” nên biết rằng những nhận định trên không phải là hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) tuyên truyền cho “giới trẻ”, mà là của chính các viên chức cao cấp trong chính quyền Mỹ và của các bậc khoa bảng trong xã hội Mỹ. Vậy thì nay chắc “giới trẻ” đã biết rõ lý do tại sao có cuộc chiến Việt Nam 1954-1975. Không biết thì phải học. Sự học hỏi để biết sự thật không bao giờ có thể nói là muộn. Vì sự thật sẽ cởi trói những quan niệm sai lầm trong đầu óc của chúng ta. “The truth will set you free”, Chúa Giê-su đã nói như vậy.
Người tự xưng "Giới trẻ"  Tuy nhiên, chúng tôi cũng còn vài thắc mắc rất đơn giản. Kính mong các bác, các chú, là những người đã và đang phục vụ cho đảng và nhà nước Việt Nam và những người vẫn khư khư cho rằng chiến tranh Việt Nam là cần thiết để “giải phóng miền Nam” thoát khỏi sự “kìm kẹp của Mỹ, Ngụy” v…v… giải thích giùm:
Câu hỏi 1. Sau năm 1954, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Hiệp địnhGeneveđã được ký kết ngày 27/10/1954 chấm dứt chiến tranh Ðông Dương lần thứ nhất. Trong thời gian chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) lãnh đạo chính quyền miền Bắc,tại sao 1 triệu người miền Bắc đã phải lên tàu đua nhau bỏ chạy vào miền Nam để cho “Mỹ - Diệm kìm kẹp” mà không ở lại cùng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và chủ tịch HCM? Số 1 triệu người này có thể còn nhiều lần hơn nếu nhà nước không dùng bạo lực ngăn chặn, không cho họ ra đi! Tại sao, ngoại trừ một số các cán bộ đảng viên cộng sản (CS) tập kết ra Bắc, người dân miền Nam lại không đua nhau chạy ra Bắc theo chế độ CS của chủ tịch HCM, màtuyệt đại đa số cứ nhất quyết ở lại cho “Mỹ - Diệm kìm kẹp”? Theo hiệp định Geneve thì lúc đó mọi người được hoàn toàn tự do lựa chọn đi ra miền Bắc hay ở lại miền Nam cơ mà??
TCN: Câu hỏi của “giới trẻ” không đơn giản nhưng câu trả lời thì rất đơn giản. Người Việt Nam vốn không ai muốn bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Nhưng trong cuộc chiến chống Pháp trở lại Việt Nam không phải là không có sự chia rẽ trong đại khối dân tộc, giữa những người yêu nước kháng chiến và những người theo Pháp, hoặc chống Cộng theo lệnh của Giáo hoàng. Trong gần một triệu người di cư vào Nam năm 1954 thì tới 80% là Công giáo. Người Công giáo di cư vì tin vào lời tuyên truyền của Lansdale: “Đức Mẹ đã vào Nam”; “Chúa Giê-su đã vào Nam”.
Các giám mục và linh mục kéo nhau chạy trước thì con chiên phải chạy theo để cho các bề trên còn có người để mà chăn dắt. Hơn nữa, khi đó người Công giáo Việt Nam, từ trên xuống dưới, tuyệt đối tuân theo lệnh của Giáo hoàng: không hợp tác với CS, không đọc sách báo của CS, và phải chống Cộng cho Chúa đến chết, bất kể là Cộng đang lãnh đạo dân chúng kháng chiến chống Pháp, có chết cũng được làm “thánh tử đạo” và được Chúa cho lên thiên đường.
Thành phần di cư còn lại không ít thì nhiều thuộc quân đội Quốc Gia, bác thuộc thành phần này, và gia đình, các thương gia có máu mặt. Còn người dân nghèo thì di cư rất ít. Như trên đã nói, người Việt Nam vốn không ai muốn bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Hơn nữa, người miền Nam tin tưởng rằng đất nước sẽ thống nhất vào 2 năm sau, 1956, theo quy định của Hiệp Định Geneva, nên không có lý do gì phải chạy ra Bắc. Người dân thường chỉ muốn ở đâu ở đó, yên ổn làm ăn, cùng với làng xóm, họ không ngờ rằng Diệm sợ thua trong cuộc Tổng Tuyển Cử và theo lệnh Mỹ, phá hoại Hiệp Định Geneve, không chịu thi hành điều khoản Tổng Tuyển Cử để thống nhất đất nước.
Câu hỏi 2. Tại sao hồi còn chiến tranh Việt Nam (trước 30/4/1975),mỗi khi có giao tranh giữa quân đội miền Nam (VNCH) và bộ đội “giải phóng” thì dân chúng đều chạy về phía có lính miền Nam trú đóng, chứ không chạy về phía bộ đội “giải phóng”?Nếu dân miền Nam bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp”, cần phải được “giải phóng”, thì lẽ ra họ phải hồ hởi mà chạy về phía các “đồng chí bộ đội”, tay bắt mặt mừng và cám ơn “được giải phóng”, chứ sao lại bồng bế nhau mà chạy trối chết để xa lánh các “đồng chí” ấy?Ðua nhau chạy vế phía có lính miền Nam để tiếp tục bị “kìm kẹp”, không lẽ họ ngu đần đến nỗi chỉ thích bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp”chứ không muốn được “giải phóng” à?
TCN: Đây là một câu hỏi rất ngớ ngẩn, chứng tỏ “giới trẻ” chỉ theo luận điệu thiếu trí tuệ của “giới già” chứ chẳng hiểu gì về tình hình đất nước. Dân chúng miền Nam sống trong một số thành thị và làng mạc, được coi là nằm trong vòng kiểm soát của VNCH. Mỗi khi xảy ra cuộc giao tranh ở đâu thì người dân chạy đi bất cứ đâu để tránh bom đạn. Chạy đi đâu khi cuộc giao tranh chưa ngã ngũ, làm sao giữa cuộc giao tranh lại có thể “chạy về phía các “đồng chí bộ đội”, tay bắt mặt mừng và cám ơn “được giải phóng””, hay chạy về phía có lính miền Nam trú đóng??. Quân đội giải phóng đánh trận xong rồi tan biến, vào đâu không biết, nhưng chắc chắn là nếu không có người dân ủng hộ thì không thể nào tồn tại. Quân giải phóng không có căn cứ nhất định. Vậy dù người dân có muốn chạy về phía quân đội giải phóng hay chạy về nơi trú đóng của lính miền Nam cũng không biết chạy về đâu. Phản ứng trước hết là chạy về nơi nào mình cảm thấy có thể an toàn. Câu hỏi trên đặt trên giả định là người dân đều có ý thức và lập trường chính trị vững chắc như “giới trẻ”, biết đâu là biên giới giữa Quốc và Cộng và ngay giữa cuộc giao tranh, lao đầu vào bom đạn, để mà chạy về một phía theo sự chọn lựa của mình, trong khi bản chất của cuộc chiến tranh nhân dân là không có giới tuyến. Thật đúng là “giới trẻ” còn cần phải học hỏi thêm nhiều mới tránh được những câu hỏi ngớ ngẩn, hoàn toàn vô nghĩa.
Câu hỏi 3 Năm 1975, sau khi chiến tranh chấm dứt,“bộ đội giải phóng” chiếm toàn bộ miền Nam, đất nước thống nhất, Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào. Tại sao dân miền Nam lại lũ lượt trốn chạy ra đi, bất chấp nguy hiểm, bão tố, cá mập, hải tặc mà vượt Biển Ðông; bất chấp các bãi mìn, hay bị Khơ-me Ðỏ chặt đầu; để bằng đường bộ băng qua Campuchia sang Thái Lan?
Theo ước tính của các cơ quan truyền thông, thông tin quốc tế thì hơn 1 triệu người đã đi bằng hình thức này (http://archives.cbc.ca/id-1-69-324/ l....ty/boat_ people).
TCN: Có rất nhiều lý do để cho người dân miền Nam bỏ nước ra đi. Những người có mặc cảm tội lỗi với nhân dân thí dụ như cường hào ác bá, hay cậy thế Công giáo hiếp đáp dân chúng, có những hành động có tội với dân chúng như cướp đất, cưỡng bách cải đạo v…v…, sợ trả thù, thì mới phải trốn chạy, còn người dân thường ra đi vì nhiều lý do khác nhau. Trường hợp cá nhân bác, nguyên là một sĩ quan trong quân lực VNCH, tuy đã giải ngũ, nhưng lại đi học ở Mỹ về, cho nên bác tìm đường ra đi vì không muốn đặt cuộc đời trong tương lai của bác vào những ẩn số hậu chiến mà bác biết là không thể nào kiểm soát được. Đợt di cư đầu tiên gồm vài trăm ngàn người cùng gia đình, hầu hết là thành phần mà Mỹ nghĩ rằng có thể nguy hiểm đến tính mạng vì đã hợp tác với chính quyền miền Nam hay Mỹ, nên có chương trình bốc đi di tản. [The Pentagon had been told to plan for the movement of 175,000 South Vietnamese who were in danger of being executed by the Communists for their service to the South Vietnam government or the United States.] Về sau một số người thuộc giai cấp trung lưu ra đi vì không muốn sống dưới chế độ khắc nghiệt của CS với nhiều chính sách sai lầm về xã hội, về giáo dục ở miền Nam sau năm 1975, thí dụ như cải tạo, xét lý lịch vào đại học v..v…, con cháu không có tương lai. Một số lớn ra đi sau 1977 là vì tình trạng kinh tế kiệt quệ của đất nước sau cuộc chiến.
Miền Nam sống nhờ viện trợ Mỹ, vốn là một vựa thóc nhưng dân miền Nam lại phải ăn gạo Mỹ, thật ra là Thái Lan, nhập cảng. Miền Bắc đổ hết cả vào chiến tranh cho nên sau cuộc chiến, CS không có chiếc đũa thần để vực lại nền kinh tế quốc gia ngay lập tức như người dân mong muốn.
Chúng ta đừng quên là Mỹ đã cấm vận Việt Nam suốt 19 năm, Ấn Độ muốn giúp Việt Nam 100 trâu bò để cầy cấy cũng không được, và người Việt chống Cộng hải ngoại yêu cầu Mỹ đừng bỏ cấm vận, để cho người dân chết đói, nổi loạn, do đó chính quyền CS sẽ sụp đổ. Trong hoàn cảnh đất nước như vậy, ý thức sống còn của con người rất mạnh, nên tìm đường ra đi, hi vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn nữa những tin tức từ những người tỵ nạn ở nước ngoài lọt về, thường có tính cách khoa trương về xe cộ, nhà cao cửa rộng v…v… cho nên rất quyến rũ đối với những người ở nhà đang sống trong hoàn cảnh vật chất khó khăn của cả nước. Đó là điều dễ hiểu.
Đừng có nói là tất cả những người ra đi đều là để tị nạn chính trị hay tôn giáo. Columbia Encyclopedia nhận định: “Tuy người Việt Nam tiếp tục chạy khỏi Việt Nam cho tới giữa thập niên 1990, những đợt thuyền nhân về sau được coi là thuộc thành phần tỵ nạn kinh tế chứ không phải là tỵ nạn chính trị.” [Although people continued to flee Vietnam into the mid-1990s, nearly all later boat people have been regarded as economic, not political, refugees.]
Chúng ta cũng nên biết rằng, một Hội Nghị ở Geneva vào năm 1989 đã quyết định là những thuyền nhân đến sau ngày 16 tháng 6, 1988, ở Hồng Kông, và 14 tháng 3, 1989, ở các quốc gia Đông Nam Á khác, không tự động được hưởng quy chế tỵ nạn, mà phải xem xem ai là những người thực sự là tỵ nạn “vì có lý do vững chắc sợ bị trấn áp” và ai là những di dân vì kinh tế. [The conference decided that all Vietnamese boat people arriving after a cutoff date - June 16, 1988, in Hong Kong and March 14, 1989, for other Southeast Asian nations - would no longer receive automatic status as refugees, but would be screened to decide who among them were real refugees with a ''well-founded fear of persecution'' and who were economic migrants.]
Tình trạng di dân vì kinh tế là một tình trạng xã hội trên thế giới, không riêng gì ở Việt Nam. Nước Mỹ đang phải đối phó với vấn nạn người Mễ xâm nhập Mỹ bất hợp pháp và không có hi vọng giải quyết dù đã xây bức tường cao ngăn cách những con đường xâm nhập của người Mễ ở biên giới, và đã huy động cả một lực lượng hùng hậu để kiểm soát biên giới. Những người Mễ này bất chấp nguy hiểm, đói khát, rắn độc v..v.. để cố tìm cách vào Mỹ, nhiều khi phải bỏ mạng giữa đường. Nhưng có ai quy trách cho chính quyền Mễ đâu. Nước Mễ là nước có thể gọi là toàn tòng Công Giáo dưới sự quan phòng của Chúa, vậy tại sao người dân lại phải bỏ nước bất chấp nguy hiểm. Tôi đã gặp không thiếu người Việt di cư, và với “background” của họ thì tôi không thể nào nghĩ rằng họ sẽ bị CS bạo hành nếu ở lại. Một số nữ giới ở Phi Luật Tân cũng phải đi làm đầy tớ ở nước ngoài, có ai đổ tội đó cho chính quyền Phi Luật Tân đâu.
Câu hỏi 4  Chúng tôi đã được học tập là “Mỹ- Diệm đã ban hành đạo luật 10/59 tố Cộng, diệt Cộng, lê máy chém đi khắp miền Nam”, nào là “bè lũ tay sai quân phiệt ”Nguyễn Văn Thiệu”, nào là “ghi khắc tội ác dã man của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”… v.v…. Khi học xong, đọc hay nghe những dòng chữ như thế, thì chúng tôi nghĩ, chắc hẳnchế độ ở miền Nam dù với Diệm hay Thiệu thì cũng tàn ác kinh khủng lắm, thế nhưng tại sao lại suốt từ 1954 cho thời điểm ngày “Giải phóng” 30/4/1975 - 20 năm trời, không hề có hiện tượng người dân miền Nam từ bỏ, trốn khỏi miền Nam để xuống tầu đi vượt biên? Thay vì đến khi bộ đội ta từ miền Bắc vào Nam “giải phóng”, lẽ ra phải ở lại mừng vui, thì họ lại kéo nhau ra đi là thế nào?Thế thì có tréo cẳng ngỗng không? Tại sao hàng ngàn dân miền Bắc, nhất là từ Hải Phòng, đã có kinh nghiệm sống dưới sự lãnh đạo của Bác và Ðảng hơn 20 năm, cũng bỏ miền Bắc XHCN, vượt vịnh Bắc Bộ sang Hong Kong mong có cơ hội được sống với thế giới tư bản, chứ nhất định không ở lại miền Bắc XHCN “tươi đẹp, thiên đường”?
TCN: Đây là một câu hỏi rất ngớ ngẩn nếu không muốn nói là ngu. Trong thời gian từ 1954 đến 1975, người dân miền Nam vượt biên với tư cách gì, và nước nào nhận cho làm dân tỵ nạn. Nếu có lọt vào nước nào thì cũng chỉ là với tư cách di dân lậu, bất hợp pháp, và có thể bị cầm tù hoặc trục xuất về nguyên quán. Vì kết cuộc của cuộc chiến mà bản chất là giữa thế giới tự do và thế giới CS cho nên mới có vấn đề một số nước nhận người Việt Quốc gia là dân tỵ nạn CS. Và dần dần làn sóng tỵ nạn trở thành một gánh nặng cho những quốc gia mà các thuyền nhân đổ tới.
Vào giữa thập niên 1980, Á Châu và phần còn lại của thế giới phải chịu gánh nặng mà họ gọi là sự mệt nhọc của lòng từ bi. [But by the mid 1980s, Asia and the rest of the world was suffering from what was dubbed compassion fatigue] . Năm 1996, Liên Hiệp Quốc quyết định ngưng tài trợ cho những trại tỵ nạn trong đó còn khoảng 40000 thuyền nhân, và Hồng Kông, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, và Phi Luật Tân đã gửi trả về Việt Nam hầu hết những người tỵ nạn còn lại. [Columbia Encyclopedia: In 1996 the United Nations decided to end the financing of the camps holding the remaining 40,000 boat people, and Hong Kong, Thailand, Indonesia, Malaysia, and the Philippines returned most of the remaining refugees to Vietnam.]
Từ 50 đến 60% thuyền nhân Việt Nam đến Malaysia không được phép nhập nội và bị đẩy ra lại ngoài biển [New York Times, April 17, 1990: As many as 50 to 60 percent of those Vietnamese boat people arriving in Malaysia are now being sent back out to sea, diplomats say.] Nói tóm lại, những đợt thuyền nhân về sau bỏ nước ra đi cũng giống như người Mễ, muốn có một đời sống đầy đủ vật chất hơn. Đó là sự chọn lựa cá nhân chứ hầu hết không có liên hệ gì với chính quyền miền Nam hay với Mỹ mà phải sợ CS truy tố, bạo hành.
Chuyện thuyền nhân là chuyện đã đi vào quá khứ. Chuyện ngày nay mà “giới trẻ” cần tìm hiểu là tại sao lại có rất nhiều người thuộc những lớp thuyền nhân trên lại trở về thăm viếng quê hương đất tổ, mang cả tỷ đô-la về cho chính quyền mà ngày xưa mà họ phải bỏ ra đi bất kể những bất trắc, nguy hiểm, trong khi những người chống Cộng ở hải ngoại thường hô hào không du lịch Việt Nam, không mua hàng Việt Nam v…v...
Về những điều mà “giới trẻ” được học tập như: “Mỹ- Diệm đã ban hành đạo luật 10/59 tố Cộng, diệt Cộng, lê máy chém đi khắp miền Nam”, hay “ghi khắc tội ác dã man của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai” thì “giới trẻ” cũng nên tìm hiểu xem đó là sự thật hay là những điều mà Nhà Nước bịa ra và bắt “giới trẻ” học tập.
Hiện nay tài liệu lịch sử về chính quyền Ngô Đình Diệm đã rõ ràng. “Giới trẻ” có thể đọc trên http://www.sachhiem.net/TCN/TCNls/TCNls06.php, bài “Vài Nét Về Cụ Diệm”, hoặc trên http://www.sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1a.php, bài “Ngô Đình Diệm: Con Người Và Tội Ác” của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang.
Còn chuyện đế quốc Mỹ có tàn ác dã man không thì chính người Mỹ đã viết nhiếu về vấn đề này. “Giới trẻ” có thể đọc http://www.intellnet.org/resources/american_terrorism/Vietnamese victims.html, bài “American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974”. Bài này đã được dịch ra tiếng Việt là CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ VÀ DIỆT CHỦNG DÂN TỘC VIỆT NAM CỦA MỸ 1945 – 1974 và đăng trên http://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts25.php với bản gốc bằng tiếng Anh. Sau đây là vài đoạn ngắn trong đó:
* Những tội phạm chiến tranh thuộc Thủy, Lục, Không quân Hoa Kỳ đã tàn sát 3 triệu người ở Việt Nam, trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các nạn nhân là đàn bà và trẻ con.
CIA có ngay cả một chương trình khủng bố chính thức của quốc gia Mỹ ở Việt Nam, được biết là “Chiến Dịch Phụng Hoàng” hay “Kế Hoạch Phụng Hoàng”. [Kế hoạch Phụng Hoàng còn được biết dưới tên “Kế Hoạch Ám Sát” (Douglas Valentine, The Phoenix Program, p. 191: “Phoenix was labeled an Assassination Program”).] Qua Kế Hoạch Phụng Hoàng, nhiều trăm ngàn người đã bị tra tấn đến chết trong những “trung tâm thẩm vấn” trên khắp Nam Việt Nam. Những trung tâm tra tấn này được dựng lên bởi Mỹ rõ ràng cho mục đích đó. Phụ nữ luôn luôn bị hãm hiếp như là một phần của tra tấn trước khi bị giết. Khủng bố, hãm hiếp và giết người hàng loạt một cách đại qui mô trên khắp miền quê là chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa Kỳ. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai là một chiến dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoàng.
Chính sách diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ có nguồn gốc từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Mỹ đã ủng hộ Pháp trong toan tính lấy lại quyền cai trị đẫm máu của thực dân Pháp ở Đông Nam Á.
* Quá nhiều “con em của chúng ta” đã phạm phải những tội ác cuồng dâm chống nhân loại. Lính Mỹ tra tấn tù binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường hậu môn, hãm hiếp và bạo sát đàn bà và con gái. Lính Mỹ tàn sát toàn thể đàn ông, đàn bà, trẻ con trong nhiều làng – kể cả con nít - ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai và Thanh Phong.
* John Kerry, Trung Úy Thủy Quân, hiện là Thượng Nghị Sĩ Mỹ và đã là ứng cử viên Tổng Thống trong kỳ bầu Tổng Thống Mỹ vừa qua, đã làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971 như sau:
“Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này.”
Như vậy thì bản chất chính quyền Ngô Đình Diệm ra sao, và những tội ác dã man của “đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai..” như thế nào thì “giới già” chúng tôi đã biết, chỉ có “giới trẻ” là không biết đến mà thôi. Vào thời đó, người dân có muốn bỏ ra đi cũng không bỏ được. Bỏ đi đâu, nước nào sẽ nhận như là dân “tỵ nạn Quốc Gia”?? Sở dĩ “giới trẻ” đặt ra những câu hỏi ngớ ngần là vì kiến thức về cuộc chiến Việt Nam còn thiếu sót rất nhiều, nếu không muốn nói là đã bị “giới già” ở hải ngoại, giới chống Cộng cho Chúa, tuyên truyền một chiều bất kể sự thật.
Câu hỏi 5.  Năm 2005, sau khi hoà bình đã về trên quê hương được 30 năm, đảng CS đã lãnh đạo đất nước được 30 năm, (chính quyền Sài Gòn chỉ lãnh đạo miền nam có 20 năm thôi, 1954-1975), thì tại sao dân chúng vẫn còn lũ lượt tìm cách rủ nhau ra đi.Trai thì đi lao động cho nước ngoài, rồi tìm cách trốn ở lại, gái thì cắn răng chịu đựng tủi nhục lấy toàn đàn ông (già cả, tàn tật, hết thời, …) của Ðài Loan, Singapore, Ðại Hàn, để có cơ hội thoát khỏi Việt Nam ??? Tại sao du học sinh, thành phần gọi là tương lai của đất nước vẫn luôn tìm mọi cách (ngay cả khi chưa học xong) để ở lại nước ngoài, như lập hôn thú (giả có mà thật cũng có) với người Việt hải ngoại, chứ nhất định không chịu trở về Việt nam???
TCN: Trước đây bác đã nhận định: Khi kỹ nghệ phát triển thì nó sẽ kéo vào những tệ đoan xã hội và đó là điều không thể tránh được. Không tránh được và cũng rất khó kiểm soát, ngăn chận. Với một chính sách khôn ngoan, cương quyết, chính quyền cũng chỉ có thể giảm thiểu được sự nguy hại của những tệ đoan xã hội. Không nước nào là không có những tệ đoan và vấn nạn xã hội, nhưng không có ai đổ tội cho chính quyền. Chỉ có những người chống Cộng thiếu trí tuệ mới đổ tất cả những tệ đoan xã hội lên đầu CS, không biết rằng kiểu chống Cộng như vậy là kiểu chống rẻ tiền.
Trong thời VNCH ở miền Nam, không phải là không có những du học sinh và cả sĩ quan cao cấp trong quân đội được chính quyền cho đi du học ở ngoại quốc nhưng không chịu về nước, tìm cách ở lại. Hơn nữa, vào thời đó đâu có phải ai muốn xuất ngoại cũng được. Không thể lấy chồng ngoại quốc được vì có đâu mà lấy, nên vì hoàn cảnh phải đi làm gái điếm v…v… Thời nửa triệu quân đội Mỹ hiện diện trên đất nước, số gái điếm là bao nhiêu và người ngoại quốc đã gọi thành phố Saigon như thế nào, chắc “giới trẻ” không hề biết, hoặc có biết cũng há miệng mắc quai. Nhưng ai cũng biết vì đồng đô-la và vì thao túng quyền hành nên trong dân gian đã có câu truyền tụng rộng rãi: [Nhất đĩ, nhị Cha…], gái điếm đã leo lên tột đỉnh của nấc thang xã hội.. Chúng ta hãy lấy thí dụ về nước Mỹ. Sau đây là một số thống kê của chính nước Mỹ.
- Thống kê năm 2000: 14 triệu người tuổi từ 12 trở lên dùng ma túy (6.3% dân số).
- Năm 2001: 15.980 vụ giết người, 90.491 vụ hiếp dâm. Cứ 2 phút lại có một người bị hiếp (tài liệu của bộ Tư Pháp)
- Trên 1 triệu gái mãi dâm hành nghề trên đường phố, nhà tắm hơi (sauna), phòng tẩm quất (massage parlor) và qua điện thoại, trong đó có 300.000 vị thành niên. Thành phố New York tốn $43 triệu mỗi năm để kiểm soát các vấn đề liên quan đến mãi dâm. Mới gần đây đài ABC phanh phui ra vụ các tên ma cô đi đến các trung tâm thương mại (shopping mall) tuyển mộ gái mãi dâm từ lớp tuổi 12.
- 4.000 vụ phá thai mỗi ngày. Năm 1999 có 1.365.730 vụ phá thai.
- 14.000.000 người nghiện rượu.
- Có 2.200.000 tù nhân Mỹ đang ngồi tù. Cả thế giới có 9.000.000 người đang ngồi tù, Mỹ chiếm 22% trong khi tỷ lệ dân số của Mỹ trên thế giới chỉ có 5%.
- Ở Trung Quốc thì cứ trong 100.000 người có 111 người ngồi tù, ở Mỹ là 686 người, gấp hơn 6 lần trong khi dân số Mỹ chỉ bằng 24% dân số Trung Quốc.
- 50% các cặp vợ chồng do Chúa kết hợp đi đến ly dị.
- Từ 4% đến 10% dân chúng đồng tính luyến ái. Tỷ lệ “gay” trong giới linh mục gấp 4 lần tỷ lệ ở ngoài dân gian.
- Trên 5000 linh mục Công Giáo bị truy tố về tội cưỡng dâm trẻ em phụ tế và nữ tín đồ.
Nhưng đâu có thấy ai nói là chế độ tư bản, tự do đã tạo ra những tệ đoan như vậy hay là chính quyền Mỹ đã lãnh đạo nhân dân cả mấy trăm năm mà để xẩy ra như vậy.
Câu hỏi 5.  Những năm gần nay, những người Việt trước nay đã trốn đi vượt biên, chạy theo để “bám gót đế quốc”, là “rác rưởi trôi dạt về bên kia bờ đại dương”, là “thành phần phản động”, là “những kẻ ăn bơ thừa, sữa cặn” như nhà nước Việt Nam vẫn từng đã nói. Nay được chào đón hoan nghênh trở về Việt Nam làm ăn sinh sống và được gọi là “Việt kiều yêu nước”, “khúc ruột ngàn dặm”? Có đúng họ “yêu nước” không? Tại sao họ không dám từ bỏ hoàn toàn quốc tịch Mỹ, Pháp, Canada, Úc, xé bỏ hộ chiếu nước ngoài và xin nhập lại quốc tịch Việt Nam và vĩnh viễn làm công dân nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam???
TCN: Đúng là “giới trẻ” cần phải học hỏi nhiều về cách đặt vấn đề. Nhưng không trách được vì cách đặt vấn đề phản ánh trình độ hiểu biết của người đặt. Trước hết, một người yêu nước thì ở đâu cũng có thể yêu nước qua những hoạt động giúp nước của họ, không nhất thiết cứ phải từ bỏ quốc tịch khác hay xé hộ chiếu để về sống nơi quê nhà.. Những người sống trên đất nước của mình không nhất thiết là những người yêu nước mà rất có thể là Việt gian. Không cần phải từ bỏ quốc tịch khác nhưng vẫn có thể góp phần xây dựng đất nước thay vì tìm cách phá hoại đất nước.
Trên http://giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=3153 có một bài của Nhật Anh, viết theo tờ Wall Street Journal, về chủ đề: Việt kiều đổ về nước làm ăn, đăng ngày 18/12/2008. Sau đây là vài đoạn trong bài viết này:
Việt Kiều Đổ Về Nước Làm Ăn [Nhật Anh viết
theo Wall Street
Journal]: Việt Kiều và những ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của Việt Nam.
Xu hướng Việt kiều quay về sinh sống và đầu tư kinh tế ở Việt Nam đã bắt đầu từ những năm 1990. Với bộ luật năm 1994 quy định về chính sách nhập cư và khuyến khích người Việt Nam sống ở nước ngoài về đầu tư tại quê hương đã lôi cuốn rất nhiều Việt kiều về nước làm việc và sinh sống, đặc biệt là những người có năng lực làm việc, có thể cống hiến cho tương lai đất nước.
Dù là những người chủ các quán rượu, các câu lạc bộ đêm các phòng trưng bày nghệ thuật, các cửa hàng thời trang, các công ty kiến trúc hay các xưởng phim,… thì tất cả họ đều mang một phong cách làm việc mới, một tiêu chuẩn quốc tế và một sự pha trộn văn hóa vào Việt Nam để giúp Việt Nam ngày càng hiện đại hơn.
“Việt Kiều đã mang lại những ảnh hưởng to lớn tới hầu hết các lĩnh vực trong đời sống ở Việt Nam” kể từ năm 1986, khi đất nước bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, và mở cửa nền kinh tế, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, ông MarkSidel, một giáo sư luật học tại trường Đại Học Iowa nói.
Bên cạnh việc đầu tư vào kinh tế, giáo sư Sidel cũng nói thêm rằng Việt kiều đã đem lại những ý tưởng mới và hàng loạt những kĩ năng chuyên nghiệp vào Việt Nam, đó chính là chìa khóa để đổi mới và xây dựng quốc gia.
“Việt Nam vẫn phải thận trọng với một số ít Việt Kiều thuộc các nhóm phản động ở nước ngoài về Việt Nam với mục đích chống phá chính phủ, để thiết lập nền chính trị của họ ở Việt Nam”, giáo sư MarkSidel nhấn mạnh. Nhưng hầu hết Việt Kiều trở về nước đều không quan tâm đến chính trị, và “họ được chào đón ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống”.
Có Việt Kiều ở ngoại quốc, lấy việc về làm ở Việt Nam [outsource] vừa rẻ, vừa giúp cho một số người Việt có công ăn việc làm, và rất thành công. Chúng ta thấy trong khi giới trẻ Việt kiều có nhiều người tha thiết với sự đóng góp để phát triển quốc gia thì một số người vẫn đi buôn thù hận và nhắm mắt nhắm mũi chống Cộng một cách rất cuồng tín.
Sau bao năm năng nổ vận động như: ngăn cản bỏ cấm vận, cản trở việc thông qua quy chế PNTR cho Việt Nam, cản trở Việt Nam gia nhập WTO, van xin ông Bush lợi dụng dịp APEC để ép Việt Nam về nhân quyền, khoa trương mấy cái nghị quyết ấm ớ của hạ viện Mỹ, của quốc hội Âu Châu v…v… với mục đích để “Đen về thay thế Đỏ” mà không mang lại một kết quả nhỏ nhoi nào. Hàng năm vẫn có nhiều trăm ngàn “Việt Kiều” về thăm quê hương đất tổ, và không chỉ về có một lần, vẫn gửi cả mấy tỷ bạc về Việt Nam, vẫn mua hàng của Việt Nam. Hàng năm, đến Tết, vẫn có cả trăm ngàn “Việt kiều” về quê ăn Tết. Đối với những người đã về thăm quê hương thì họ thấy rõ sự thực về Việt Nam hơn ai hết, cho nên tất cả những lời lẽ xuyên tạc, bịa đặt v..v.. về Việt Nam ở hải ngoại chẳng còn một giá trị nào, chỉ có thể lừa bịp được những kẻ ngu ngơ ngốc nghếch
Ba năm sau ban hành Nghị Quyết 36 chúng ta có thể đọc được bản tin ngày 04/10/2007 những đoạn như sau:
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều chuyển biến tích cực về tư duy và hành động, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm khẳng định.
Số Việt kiều về thăm quê hương, tìm hiểu điều kiện đầu tư ngày càng tăng, từ 300.000 người năm 2003 lên hơn nửa triệu người trong năm 2006. Tính đến hết năm 2006, có 2.050 dự án của người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về nước, với số vốn là 14.500 tỷ đồng. Lượng kiều hối bà con gửi về nước năm sau cao hơn năm trước, từ 2,7 tỉ USD năm 2003 lên 4,8 tỉ USD năm 2006.
Hàng năm có hàng trăm lượt chuyên gia trí thức về nước nghiên cứu, giảng dạy, hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu; nhiều hội, đoàn và các tổ chức nghề nghiệp của người Việt, đặc biệt là ở các nước phát triển đã thực hiện các hoạt động, các dự án hợp tác khoa học, công nghệ và các hoạt động mang tính nhân đạo trợ giúp đồng bào trong nước.
Vậy họ có yêu nước không? Câu trả lời nằm trong câu hỏi. Đừng có lẫn lộn yêu nước với yêu CS.
Câu hỏi 6. Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12, chúng tôi được giảng dạy rằng, “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Theo như chúng tôi tìm hiểu, năm 1961 khi Ngô Ðình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc ấy chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường xá… Mỹ chỉ bắt đầu đưa lính vào miền Nam từ năm 1965, sau khi lật đổ và giết Ngô Ðình Diệm do Diệm tiêu diệt Phật Giáo và bắt tay với Cộng Sản. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Vậy thì vào thời điểm 20/12/1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống?? Các bác, các chú chống ai, chống cái gì vào năm 1960???
TCN: Những lý luận và câu hỏi ở trên của “giới trẻ” chứng tỏ trình độ hiểu biết của “giới trẻ” rất thấp, không chịu nghiên cứu, cho nên vẫn nêu những thắc mắc về những vấn đề mà lịch sử đã viết rõ. Sau đây là một bài học ngắn về lịch sử cho “giới trẻ”. Trước hết là chẳng làm gì có sự kiện vịnh Bắc Việt, tất cả đều do Mỹ ngụy tạo để có cớ oanh tạc miền Bắc. Đây là một sự thật lịch sử mà chính Mỹ cũng không thể phủ nhận.
Vậy từ đâu mà có Mặt Trận Giải Phóng, và MTGP được thành lập để làm gì. Tài liệu Ngũ Giác Đài đã viết rõ. Chúng ta có thể đọc trong The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960" (Boston: Beacon Press, 1971), Mục G. THE VIET CONG; 1. Diem and Communists, (3) vài đoạn như sau:
Ngô Đình Diệm nắm quyền trong một quốc gia mà dù tất cả những hứa hẹn trên đầu môi chót lưỡi là cho tự do cá nhân và theo kiểu chính phủ Mỹ, vẫn chỉ là một chế độ độc đảng, một tập đoàn đầu sỏ chính trị gia đình trị trong đó không có sự thực thi dân chủ cũng như những điều kiện tiên quyết để cho dân chủ. Ngày 11 tháng 1, 1956, trong sắc lệnh CPVN số 6, Tổng thống Diệm ban bố những biện pháp rộng rãi của chính phủ nhằm “bảo vệ quốc gia và trật tự công cộng”, gồm quyền bắt giam “những cá nhân bị coi là nguy hiểm cho quốc gia” hoặc cho “quốc phòng và an ninh chung” trong những trung tâm cải tạo. Một tháng sau ngày Hiệp Định Geneva quy định toàn dân bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển cử vào ngày 21 tháng 8, 1956, chính phủ VN tuyên bố sắc lệnh số 47, định nghĩa sự vi phạm luật có thể bị xử tử hình bất cứ hành động nào của ai hỗ trợ cho bất cứ tổ chức nào bị chỉ định là Cộng sản. Hơn nữa, chính phủ VN bắt buộc phải dùng bạo lực để củng cố quyền lực trong vùng thôn quê.
Một bài trong tờ Foreign Affairs vào tháng 1, 1957, một phân tích gia Mỹ đã viết rõ như sau:
Nam Việt Nam nay là một quốc gia-cảnh sát tùy tiện bắt giữ và cầm tù, kiểm duyệt báo chí chặt chẽ và không có một lực lượng chống đối chính trị hữu hiệu… Tất cả những kỹ thuật về chiến tranh chính trị và tâm lý cũng như là các chiến dịch bình định bởi những cuộc hành quân quân sự rộng lớn là dùng để chống những đối lập ngầm.
Trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), John Carlos Rowe and Rick Berg, hai giáo sư ở đại học Iowa viết, trang 28: (4)
Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức hiến thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm. Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết kế để lùa hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?) nơi đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du kích mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ.
Chúng ta nên nhớ là chính quyền Diệm do Mỹ dựng lên chứ người dân Việt Nam chẳng mấy người biết Diệm là ai, có thành tích yêu nước gì. Và từ chính sách cai trị gia đình trị, tôn giáo trị, cùng săn lùng kháng chiến vì sự cuồng tín của một người Công giáo tự nhận là một phán quan Tây Ban Nha săn lùng lạc đạo, người dân sống trong vòng sợ hãi vô pháp luật, trong sự kỳ thị, thao túng của chính quyền Công giáo, nên Mặt Trận Giải Phóng ra đời, chống chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng thời chống chủ của Diệm là Mỹ.
Chúng ta cũng không nên quên là ông Diệm đã bị ám sát hụt tại Ban Mê Thuột ngay từ năm 1957, ngày 21 tháng 5. Rồi đến cuộc đảo chánh thất bại của lực lượng nhảy dù của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi ngày 11 tháng 11, 1960, vụ dội bom dinh độc lập của 2 sĩ quan VNCH ngày 27 tháng 2, 1962.
Vậy hi vọng nay “giới trẻ” đã hiểu các chú các bác chống cái gì? Các chú các bác đây nên hiểu là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Một lời khuyên: Trước khi tham gia những diễn đàn bàn về chính trị và hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ ở Việt Nam, các cháu nên chịu khó nghiên cứu các vấn đề cho cẩn thận. Tất cả những tài liệu mà bác trích dẫn đều là của những bậc khoa bảng trong phe Quốc Gia, để đối với phe CS, và trong thế giới tự do viết, tuyệt đối không có một tài liệu nào của CS cả.
Ngày xưa bác ở phe chống Cộng, chiến tranh chấm dứt, sau khi tìm hiểu lịch sử, bác đã đăng ký vào phe của sự thật, sự thật lịch sử dựa trên những tài liệu khả tín của những tác giả trí thức ngoại quốc không liên hệ đến sự đối nghịch ý thức hệ Quốc-Cộng.. Bài của các cháu chẳng phải là nêu những thắc mắc của “giới trẻ’ mà thực ra chỉ là những luận điệu chống Cộng cũ kỹ của “giới già” trên một số diễn đàn hải ngoại mà bác đã đọc nhiều và chẳng buồn phê bình làm chi.
Nếu các cháu có thắc mắc gì thêm mà thuộc lãnh vực nghiên cứu và hiểu biết của bác thì bác sẽ sẵn sàng giảng giải cho các cháu. Bác xin nhắc lại là bác không có bộ kiến thức thuộc loại toàn trí, nghĩa là cái gì cũng biết, của Thượng đế. Vậy bác chỉ có thể trả lời những gì bác biết mà thôi. Chúc các cháu ngoan ngoãn, học giỏi, sử dụng thêm khả năng trí óc để mà giúp nước.
Chú thích, nguyên văn Anh ngữ:
(1) [During the course of its 21 years of involvement in Indochina, the United States Government offfered “reasons” for its actions. These reasons were worthless. The only reason for the American being in Indochina was to prevent the area from going Communist by an election, by an internal revolution... And this was reason enough... More reasons. And more reasons. They sprouted like asparagus in May. Before the Indochina War came to an end, a book could have filled with reasons. None of them were valid.]
(2) [When France withdrew, the US dedicated itself at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined… In short, the US invaded South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.]
(3) [Ngo Dinh Diem presided over a state which, for all the lip service it paid to individual freedom and American style government, remained a one party, highly centralized familial oligarchy in which neither operating democracy, nor the prerequisites for such existed. On 11 January, 1956, in GVN Ordinance Number 6, President Diem decreed broad governmental measures providing for "the defense of the state and public order," including authority to detain "individuals considered a danger to the state" or to "national defense and common security" at re-education centers. One month after the date of the scheduled Geneva plebescite, on 21 August 1956, the Government of Vietnam proclaimed Ordinance Number 47, which defined as a breach of law punishable by death any deed performed in or for any organization designated as "Communist." Moreover, the GVN was forced to use violence to establish itself in its own rural areas. In an article published in the January, 1957, Foreign Affairs, an American analyst stated that: South Viet Nam is today a quasi-police state characterized by arbitrary arrests and imprisonment, strict censorship of the press and the absence of an effective political opposition. . . . All the techniques of political and psychological warfare, as well as pacification campaigns involving extensive military operations have been brought to bear against the underground.]
(4) [When France withdrew, the US dedicated itself at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined. In 1961-1962, President Kennedy launched a direct attack against rural South Vietnam with large-scale bombing and defoliation as part of a program designed to drive millions of people to camps where they would be “protected” by armed guards and barbed wire from the guerillas whom, the US conceded, they were willinggly supporting.]
Trang Trần Chung Ngọc



TÀI LIỆU HỌC TẬP TƯ TƯỞNG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Chuyên đề 1
ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Phần thứ nhất

SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

I. ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.

1. Những vấn đề chung về đạo đức
- Đạo đức hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã hội.
- Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu bên trong, đồng thời chịu tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người xung quanh.
- Đạo đức xã hội bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi, ứng xử của cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân.
Hành vi đạo đức là sự biểu hiện trong ứng xử thực tiễn của ý thức đạo đức con người đã được nhận thức và lựa chọn. Đó là sự ứng xử trong các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, với tự nhiên, đồ vật, với xã hội và với chính mình.
      Quan hệ đạo đức là hệ thống những mối quan hệ giữa người với người trong  xã hội, xét về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức thể hiện dưới các phạm trù bổn phận, lương tâm, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi... giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, cộng đồng và toàn xã hội.
- Đạo đức là một phạm trù lịch sử, kết quả của quá trình phát triển xã hội loài người. Đạo đức thuộc kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định bởi cơ sở hạ tầng. Sự thay đổi của hạ tầng kinh tế - xã hội làm thay đổi các chuẩn mực của đạo đức xã hội. Tuy nhiên nhiều chuẩn mực, giá trị đạo đức, như nhân đạo, dũng cảm, vị tha..., có ý nghĩa toàn nhân loại và tồn tại phổ biến trong các xã hội khác nhau.
- Do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nên trong xã hội giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị chiếm vị trí chi phố đạo đức xã hội.
- Do hành vi đạo đức bắt nguồn từ ý thức đạo đức, nên đạo đức thường tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân. Nhưng không phải cứ có trình độ học vấn cao là có trình độ văn hóa , đạo đức cao và ngược lại, bởi sự khác biệt và có khoảng cách giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức, giữa nhận thức và hành động của mỗi người.
2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có vai trò quan trọng trong mọi xã hội.
- Đạo đức, với những chuẩn mực giá trị đúng đắn, là một bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội.
- Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Trong xã hội, sự khủng hoảng của đạo đức, sự “lệch chuẩn, loạn chuẩn”... là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội...
Vai trò của đạo đức thể hiện rõ rệt trong các chức năng của đạo đức.
3. Chức năng của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có chức năng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người và toàn xã hội, thể hiện ở các chức năng sau:
a. Chức năng giáo dục
- Những chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận, để mỗi cá nhân tự giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội.
- Khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình, tức là tự giáo dục và qua đó làm cho chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh.
Đó chính là sự giáo dục lẫn nhau giữa các cá nhân và cá nhân với cộng đồng.
b. Chức năng điều chỉnh.
Chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi của các cá nhân, của cả cộng đồng và mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.
- Các nguyên tắc, chuẩn mực và định hướng giá trị đạo đức, cùng với sự kiểm tra, đánh giá của toàn xã hội có tác dụng điều chỉnh hành vi của mỗi các nhân, để họ tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu chung của cộng đồng.
- Những chuẩn mực đạo đức được cộng đồng và toàn xã hội thừa nhận cùng với pháp luật và những quy định khác, là công cụ quan trọng để điều chỉnh quan hệ đạo đức của cả cộng đồng.
- Trong quan hệ giữa người với người, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có tác động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác và ngược lại.
c. Chức năng phản ánh
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nên sự tồn tại những mâu thuẫn xã hội cũng thể hiện trong đạo đức xã hội.
- Hành vi đạo đức của mỗi cá nhân trong xã hội ngoài thể hiện ý thức đạo đức của họ, còn phản ánh quan hệ lợi ích giữa họ với các cá nhân khác và toàn xã hội.
- Sự phê phán của xã hội về những hành vi đạo đức của mỗi cá nhân thể hiện mối quan hệ xã hội hiện thực. Ngoài trình độ nhận thức, còn do những quan hệ lợi ích của họ chi phối.
II. TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TỐT ĐẸP CỦA DÂN TỘC TA
- Trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước đã hình thành nên các chuẩn mực, các giá trị đạo đức tốt đẹp trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với yêu cầu tồn tại, phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ông cha ta luôn luôn coi trọng đạo đức, giữ gìn và phát huy các giá trị, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước; gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng; đoàn kết thủy chung, thân ái, quý trọng nghĩa tình; cần cù, yêu lao động; dũng cảm, kiên cường; hiếu học, sáng tạo...
- Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội mới, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu luôn luôn chăm lo gìn giữ và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng
Đó là lòng yêu nước, thương nòi, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, xả thân vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; sống có tình, có nghĩa, có đạo đức, có lý tưởng, vì nước, vì dân; có ý thức tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, nhân ái... Đạo đức cách mạng đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực nguồn sức mạnh to lớn của Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng xã hội mới.
- Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, truyền thống đạo đức của dân tộc đã được phát triển và bổ sung thêm những giá trị mới. Đó là những phẩm chất đạo đức mới, tiến bộ được xã hội thừa nhận, như; sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết tâm vượt khó khăn, quyết trí làm giàu, đoàn kết giúp nhau cùng phát triển, xây dựng đời sống văn hóa...
Truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những giá trị đạo đức mới hình thành trong giai đoạn mới là xu thế của chủ đạo, quyết định chiều hướng phát triển của đạo đức xã hội ta trong giai đoạn hiện nay.
III. VỀ SỰ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG TRONG MỘT BỘ PHẬN KHÔNG NHỎ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
1. Thực trạng suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
      Trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta gần đây đã nhiều lần nêu lên những mặt tốt đẹp của đạo đức trong thời kỳ đổi mới, đồng thời cũng chỉ ra thực trạng và mức độ suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và xã hội, thể hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:
         - Một là, chủ nghĩa các nhân, lối sống ích k, thực dụng, vụ lợi... có xu hướng ngày càng phát triển.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, lợi dụng vị trí lãnh đạo và quyền lực để mưu lợi cá nhân, lo thu vén cho cá nhân, gia đình, họ tộc, coi nhẹ lợi ích tập thể, cộng đồng; chạy theo lợi ích vật chất, trước mắt, coi nhẹ những giá trị tinh thần cao đẹp, dẫn đến vi phạm tư cách đảng viên, trách nhiệm công dân.
- Hai là, nạn tham nhũng, đưa và nhận hối lộ, bòn rút, lãng phí của công... diễn ra ở nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trở thành “quốc nạn”.
Trong nhiều năm qua, mặc dù Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã quyết tâm tiến hành nhiều biện pháp đấu tranh nhằm ngăn chặn, hạn chế và đẩy lùi, nhưng các tệ nạn trên vẫn diễn ra nghiêm trọng, thậm trí ở một số lĩnh vực còn có chiều hướng gia tăng.
- Ba là, quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc, những yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân, của doanh nghiệp..., làm giảm niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước.
          - Bốn là lối sống thiếu trung thực, cơ hội, “chạy chọt” vì lợi ích cá nhân, như chạy thành tích, bằng cấp, chức quyền, dự án, đề tài..., khá phổ biến. Khi bị phát hiện thì chạy tội. Trong quan hệ với đồng chí, đồng nghiệp thì kèn cựu địa vị, gây mất đoàn kết nội bộ.
          - Năm là, lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng; nói một đằng, làm một nẻo; nói nhiều, làm ít; phát ngôn tùy tiện, vô nguyên tắc... gây rối ren nội bộ, hoài nghi, bất mãn trong nhân dân, mất uy tín trong quần chúng nhân dân.
- Sáu là, suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội. Việc tranh chấp tài sản trong gia đình, ngược đãi cha mẹ, ông bà, lừa đảo bạn bè... tăng lên. Lối sống buông thả, hưởng thụ, thiếu lý tưởng, hoài bảo, thiếu quyết tâm và ý chí phấn đấu... tồn tại không ít người. Tệ nghiệm hút, cờ bạc, sa đọa có chiều hướng phát triển cả trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức ở mức độ đáng lo ngại.
- Bảy là, đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong lĩnh vực được xã hội tôn vinh,  như: y tế, giáo dục, bảo vệ luật pháp, báo chí... Hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và trật tự an toàn xã hội.
Tính chất nghiêm trọng của sự suy thoái về đạo đức, lối sống, nhất là tệ quan liên, tham nhũng, lãng phí của một bộ phn không nhỏ cán bộ, đảng viên, cùng với những tiêu cực trong xã hội được Đại hội X của Đảng coi là: “một nguy cơ, thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”.
2. Nguyên nhân của tình trạng trên.
Tình trạng suy thoái đạo đức nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ quan và khách quan chính sau đây:
a. Nguyên nhân khách  quan.
- Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, đã có tác dộng không nhỏ đến đạo đức xã hội. Mặt trái của kinh tế thị trường, với những ảnh hưởng tiêu cực của nó, tác động vào ý thức xã hội, trong đó có đạo đức xã hội.
Kinh tế thị trường, một mặt là động lực thúc đẩy mọi người chủ động, năng động đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh để thu được nhiều lợi ích, mặt khác cũng kích thích chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất, bất chấp cả kỷ cương, đạo lý. Điều đó đã tác động xấu vào quan niệm đạo đức của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Một số người, do nhận thức không đầy đủ hoặc kém vững vàng trước những tiến bộ đó đã để cho chủ nghĩa cá nhân phát triển , xa rời những giá trị văn hóa, đạo đức, để cho chủ nghĩa thực dụng chi phối các hành vi đạo đức và cách ứng xử của họ.
- Sự phát triển của cách mạng khoa học - Công nghệ, quá trình toàn cầu hóa và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu đã tạo điều kiện đẩy mạnh giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong điều kiện đó, những mặt tiêu cực của văn hóa, lối sống tư sản phương tây có điều kiện tác động mạnh vào nước ta, nhất là khi những sản phẩm văn hóa độc hại, bằng nhiều con đường tràn vào nước ta, đặc biệt ở các đô th lớn, trong khi chúng ta chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tiến  hành chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, thực hiện cuộc “xâm lăng” về văn hóa đạo đức.
- Do sự “lạc hậu tương đối” của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, trong xã hội ta hiện nay vẫn còn những tàn dư của đạo đức phong kiến, thực dân. Những hành vi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, "địa phương chủ nghĩa”... là di hại của những đạo đức cũ cùng với chủ nghĩa thực dụng, đề cao, tuyệt đối hóa tự do, quyền tư hữu của lối sống phương tây đang tác động vào đời sống tinh thần của xã hội. Thực trạng đó trong chừng mực nhất định, đã góp phần làm xói mòn những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
- Trong điều kiện phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cuộc chiến đấu giữa “diễn biến hòa bình” và “chống diễn biến hòa bình” rất quyết liệt, phức tạp. Các thế lực thù địch, phản động đã và đang chủ động tác động vào đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là với cán bộ có chức, có quyền và gia đình họ, coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “diễn biến hòa bình”. Họ chủ động sử dụng những phương tiện vật chất để mua chuộc, lôi kéo và bằng các biện pháp tinh vi kích thích lối sống hưởng thụ, tác động vào tư tưởng, tình cảm, làm thay đổi quan niệm đạo đức, lối sống; làm suy thoái tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng của cán bộ, đảng viên. Trên thực tế, đã có một số người, công khai hay ngấm ngầm, trở thành người tuyên bố cho lối sống tư sản, thực dụng, hưởng thụ, vô tình hay hữu ý đã phản bội lại mục tiêu lý tưởng đã lựu chọn.
b. Những nguyên nhân chủ quan.
- Chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định và phát triển xã hội; chưa gắn chặt phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa, đạo đức, lối sống. Một thời gian khá dài đã có biểu hiện buông lỏng việc giáo dục, quản lý đạo đức, lối sống đối với cán bộ, công chức; thiếu sự tổ chức, sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Trong công tác tổ chức cán bộ, việc đánh giá, quy hoạch, lựa chn, bồi dưỡng, đề bạt, quản lý cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, chưa coi trọng và xem xét chặt chẽ các tiêu chuẩn đạo đức. Đó là điều kiện để cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, để tệ nạn chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy dự án, chạy bằng cấp...diễn ra, đến nay vẫn chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu.
- Sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong các cơ quan, đơn vị còn bị xem nhẹ, có nơi tê liệt. Công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật còn hình thức, chưa nghiêm minh chính xác.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền và gia đình họ, chưa làm gương về đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo.
- Giáo dục đạo đức, lương tâm nghề nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Việc tuyên truyền những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ mới không thường xuyên, chưa sâu sắc, kém thuyết phục. Các quy định về đạo đức, lối sống trong các ngành, các tổ chức chưa cụ thể và chưa được thực hiện nghiêm.
         Để tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống như hiện nay phải thấy nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
IV. ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ NHÂN DÂN LÀ YÊU CẦU CẤP THIẾT CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MỚI.
1. Tác hại của sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
- Văn hóa, đạo đức là bộ phận trọng yếu của nền tảng tinh thần và động lực phát triển của xã hội. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên có nguy cơ làm giảm sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, tác động đến sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
- Sự suy giảm đạo đức, lối sống đang phá hoại hạnh phúc nhiều gia đình, làm suy giảm nguồn nhân lực, gây hậu quả rất lớn về kinh tế do không phát huy được nguồn lực con người để phát triển đất nước.
- Sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay đang là vấn đề bức xúc trong dư luận xã hội. Nó làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín lãnh đạo của Đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn, liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”.
2. Yêu cầu của giai đoạn phát triển mới đối với việc giáo dục đạo đức.
- Trong khi đặt phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Đảng ta đã khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người, vai trò nền tảng tinh thần và động lực phát triển của văn hóa, đạo đức. Giáo dục đạo đức là một trong những biện pháp đảm bảo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững của đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Văn hóa, đạo đức là động lực phát triển của xã hội. Công cuộc đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, cần phải phát huy mạnh mẽ nội lực, giải phóng mọi tiềm năng cho sự phát triển. Phát huy mạnh mẽ những chuẩn mực đạo đức mới, như năng động, sáng tạo, quyết tâm không chịu đói nghèo, đưa đất nước tiến lên cùng thời đại.. là động lực tinh thần to lớn để đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo cho nhân dân ta những điều kiện và nguồn lực mới để phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi chúng ta phải biết giữ gìn, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, hình thành, bổ sung thêm những giá trị mới, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa.
- Kinh tế thị trường càng phát triển, càng đặt ra yêu cầu cao về đạo đức xã hội nói chung, đạo đức trong sản xuất, kinh doanh nói riêng. Xã hội muốn giàu mạnh , văn minh, phát triển bền vững, mỗi cá nhân muốn thành đạt, lâu bền, phải biết cạnh tranh và hợp tác, năng động, sáng tạo, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, đồng thời phải tôn trọng chữ "tín", có lương tâm nghề nghiệp. Đó cũng chính là những yêu cầu và giá trị đạo đức cần phải xây dựng trong kinh tế thị trường.
 - Trong  bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, đặc biệt trong tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống nghiêm túc như hiện nay, cán bộ, đảng viên của Đảng muốn phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, lãnh đạo được quần chúng, nhất thiết phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện để trở thành những tấm gương trong sáng về đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: " Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. PhảI giữ gìn Đảng ta thật trong sạch , phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"
-Trong cơ chế kinh tế mới, người lao động, dù là người lao động bình thường,  công chức nhà nước hay là doanh nghiệp, bên cạnh việc trau dồi tri thức, kỹ năng, thực hiện tốt chuyên môn nghề nghiệp, về học tập, tu dưỡng đạo đức, nâng cao ý thức trách nhiệm trước dân tộc, nhân dân, cộng đồng, tập thể và với chính bản thân, gia đình mình đang là yêu cầu cấp bách của sự tồn tại và phát triển bền vững. Giữ gìn phẩm giá con người, dù ở bất cứ cương vị nào, là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người.
- Học tập, tu dưỡng đạo đức thường xuyên là cơ sở để hoàn thiện mỗi cá nhân, vì đạo đức của mỗi người không phải tự nhiên xuất hiện, mà do mỗi người tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn và tiếp thu sự giáo dục, quản lý của tổ chức, tập thể, cộng đồng, gia đình và xã hội. Vì vậy, để giữ gìn và phát huy những giá trị cao đẹp, đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên học tập, tu dưỡng, rèn luyện, tự hoàn thiện chính bản thân mình. Mọi sự buông thả, thiếu tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng, xa rời sự quản lý, giáo dục của tập thể, cộng đồng, đoàn thể và gia đình là con đường dẫn tới hư hỏng, tự đánh mất chính bản thân mình.
Phần thứ hai
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH.

I. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên  Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3 -2-1969), đăng trên báo Nhân dân và bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương đông và phương tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và đời sống của mỗi người.
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẽ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”1.
- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc, như cây, như ngọn nguồn của suối sông. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”2.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”.
- Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
+ Hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội , trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Trung với nước, hiếu với dân.
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
- Trung với nước và trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu”. Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...
- Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình.
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin để thương yêu nhau hơn. Người viết: “Học chủ nghĩa Mác-Lê nin là để sống với nhau có nghĩa có tình. Nếu sống với nhau không có nghĩa có tình thì làm sau coi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”.
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
- Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức ...”
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, ”không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài ..., không tham tâng bốc mình ...”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì  để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “ việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”, đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí công, vô tư” phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân công lý”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công, vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng.
 Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hoá kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc ...
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là:
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
- Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của  thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên ... là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên ...
- Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mắt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”1.
b. Xây đi đôi với chống.
- Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là “chủ nghĩa cá nhân”. Xây đi đôi với chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.
- Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
- Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt" để tuyên  truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
- Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
- Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai  vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
- Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cùng có  chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.
II. VỀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình thường, ai cũng có thể học theo, để làm theo, để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt trong xã hội. Tấm gương đạo đức của Người thể hiện tập trung trong các điểm sau:
1. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.
Ngay từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu  cho cả cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trên con đường thực hiện mục tiêu đó. Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện bằng được mục tiêu đó.
Sự kiên định mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới thừa nhận và kính phục. Trong bức điện chia buồn gửi Đảng ta khi Bác mất, Đảng Cộng sản Cu Ba viết: “Hiếm có một nhà lãnh đạo nào, trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy”.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng.
Cuộc đời Người là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách; bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Người tự răn mình:
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao,

3. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”.
4. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người.
Với tình yêu thương bao la, Người dành tình thương yêu cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”.
5. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã  đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mẫu thực hiện.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cao thượng tuyệt vời. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi mà mọi người đều có thể noi theo.
III. NỘI DUNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ra. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình xứng đáng là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam là “người  lãnh đạo, người đầy tới thật trung thành của nhân dân”.
1. Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh Trung với nước, hiếu với dân cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm: “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “sánh vai với cường quốc năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
- Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng , phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp  thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc ... của nhân nhân.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân, Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.
- Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thầm ham học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí làm, việc gì  có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân ...
2. Thực hiện đúng lời dạy: Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
“Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ “đối với mình” được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Người là một tấm gương mẫu mực về “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là:
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
- Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Đối với cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân ..., cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm.
- Thực hiện Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên tuyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi , việc gì có lợi cho mình thì “hăng hái”, tranh thủ kiếm lợi, việc gì không “kiếm chác” được riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạo. Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
3. Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người luôn luôn phê phán “óc lãnh tụ”  phê phán thói “quan cách mạng”, phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá nhân.
- Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để “kéo bè, kéo cánh”, để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng ..., làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát  huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất  coi trọng tự phê bình và  phê bình. Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu theo tư tưởng Hồ Chí Minh “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”, nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
4. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữ các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hoá, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng Người danh hiệu nhà văn hoá kiệt xuất trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách mạng thế giới.
- Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hoá, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hoà bình, hợp tác và phát triển.
- Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hoà bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
- Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
*
*          *
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một rong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.



CHUYÊN ĐỀ 2
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG,
QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

I.         TOÀN VĂN TÁC PHẨM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.
          Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ ta.
Trải qua 39 năm đấu tranh oanh liệt, làm cách mạng tháng 8 thành công, kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi và ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu  nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân dân ta tin tưởng rằng: Đảng ta lãnh đạo rất sáng suốt, đó đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng ta và trong mọi hoạt động hàng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, Đảng viên ta tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đó làm nên những thành tích rất vẻ vang.
Đảng ta đó đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng , gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác.
Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ  nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế.
Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, cũng có một số ít cán bộ , đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.
Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gỡ cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “ mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.
Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi , thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.
Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.
Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm.
Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cỏn bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.
Mỗi cán bộ , đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân , nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải sâu sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ.
Đó là một cách thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng ta, Đảng vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân anh hùng của chúng ta. Đó cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
                                                                                                 T.L.
II. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tình hình cách mạng Việt Nam vào thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm. Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều nhất đến vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Từ khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Chủ Tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề này. Trong di sản mà người để lại cho toàn Đảng, toàn dân có nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chỉ bàn về đạo đức cách mạng và mặt đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân.( Năm 1948, bài Chủ nghĩa cá nhân; năm 1949, tác phẩm Cần kiệm liêm chính; Tháng 1 năm 1955, Đạo đức công dân; tháng 6 năm 1955, Đạo đức cách mạng; năm 1958, Đạo đức cách mạng…)
Những tác phẩm, bài nói, bài viết bàn về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân của Hồ Chí Minh được viết và công bố vào những thời điểm rất có ý nghĩa. Đặc biệt, nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng, ngày 3/2/1969, báo Nhân dân đăng bài Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân  của Hồ Chớ Minh.
Vào đầu năm 1969 cuộc kháng chiến cứu nước của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang diễn ra quyết liệt. Đế quốc Mỹ đó thất bại trong thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, buộc phải ngừng ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán 4 bên về lập lại hoà bình ở Việt Nam tại Paris, nhưng chúng vẫn ngoan cố thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Miền Bắc, trong thời kỳ đó, cần tranh thủ điều kiện tạm thời có hoà bình, thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Trong  bối cảnh ấy, cần thiết phải tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, cũng cố mặt trận tư tưởng, ngăn chặn xu hướng xả hơi sau nhiều năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Đầu năm 1969, nhân dịp toàn Đảng, toàn dân ta chuẩn bị kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng, lần kỷ niệm đầu tiên sau mấy năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chớ Minh viết bài: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân , xem đó là nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đây là bài viết sau cùng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Dù rất ngắn gọn, nhưng luận điểm được Người đề cập trong bài viết này mang tính tổng kết thực tiễn; bổ sung, phát triển tư tưởng, lý luận về xây dựng Đảng nói chung, về đạo đức nói riêng.
Hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, để làm tốt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần học tập, quán triệt sâu sắc tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
2.Vài nét về sự ra đời của bài viết
Nhận rõ tính cấp thiết của công tác tư tưởng chính trị ở thời điểm có ý nghĩa bước ngoặc của cuộc khánh chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 25/1/1969, Bác cho mời đồng chí phụ trách Tuyên huấn của Đảng đến giao nhiệm vụ chuẩn bị bài viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng. Bác nói rõ mục đích, nội dung và nhấn mạnh yêu cầu: ngắn, gọn, tập trung vào chủ đề: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.(Và đó cũng là tên của bài báo).
Ngày 28/1/1969, Bác sửa lại bài viết rồi cho đánh máy thành nhiều bản gửi đến từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đề nghị tham gia ý kiến. Dưới hình thức tham gia một bài viết trong dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng, mỗi đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị có trong tay một tài liệu mà ngay câu đầu tiên là: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Chiều ngày 30/1/1969, Bác cùng Văn phòng đọc lại ý kiến đóng góp của từng đồng chí Ủy viên Bộ  Chính trị, bổ sung vào bản thảo, cho đưa đi đánh máy. Bác dặn đánh máy xong gửi lại để Bác sửa lần cuối.
Ba giờ rưỡi chiều ngày 1/2/1969, đồng chí phụ trách Tuyên huấn sang gặp Bác, xin bản thảo chính thức để  kịp gửi đăng báo.
Cầm bản thảo cuối cùng do Bác tự tay đánh máy, đối chiếu bản thảo đầu do Ban Tuyên huấn chuẩn bị, đồng chí cán bộ tuyên huấn gượng cười thưa với Bác:
Cháu sửa hết cả rồi còn gì nữa đâu ạ !
          Bác mỉm cười độ lượng:
Bác chữa nhưng vẫn còn giữ nguyên ý chính của bài là: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Cái đó là quan trọng nhất.
Đồng chí phụ trách Tuyên huấn xin phép với Bác cho sửa lại đầu đề bài báo, đưa vế Nâng cao đạo đức cách mạng lên lên trước vế Quét sạch chủ nghĩa cỏ nhân, với lý do là cán bộ, đảng viên ta nói chung là tốt, ưu điểm là cơ bản.
Bác quay sang hỏi ý kiến đồng chí Văn phòng:
Ý kiến chú thế nào?
Đồng chí cán bộ Văn phòng nhất trí với ý kiến đồng chí phụ trách Tuyên huấn.
- Ý kiến của các chú, Bác thấy cũng có lý. Nhưng Bác còn phân vân điều này, ví như: gia đình các chú tiết kiệm mua sắm được bộ bàn ghế, giường tủ mới, vậy trước khi kê vào phòng, các chú có quét dọn nhà cửa sạch sẽ hay cứ để rác rưởi bẩn thỉu mà khiêng bàn ghế, gường tủ vào?
Mọi người còn đang lúng túng chưa biết trả lời thế nào thì Bác đã nói:
Và cả hai chú đó đề nghị, là đa số, Bác đồng ý nhường bộ, đổi lại tên đầu bài: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.Nhưng ở trong bài thì dứt khoát phải để nguyên ý của Bác Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Lời dạy đó của Bác đến hôm nay chúng ta càng thấy vô cùng sâu sắc. Sau gần 40 năm, lời dạy của Người vẫn là phương hướng phấn đấu đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay để “ giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, phải “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TÁC PHẨM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN.
Với bài viết chưa đến 700 chữ, Hồ Chí Minh tập trung nêu bật ba nội dung chủ yếu:
1. Những thành tựu cách mạng và tấm gương đạo đức trong cán bộ, đảng viên.
- Bài viết mỡ đầu bằng hai câu mang tính khẳng định: “ Nhân dân ta thường nói:
Đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ ta”.
“Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” là cách nói dân gian thể hiện tình cảm của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, phỏng theo luận điểm “tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc”. Đó cũng là mong muốn mà Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ, đảng viên.Trong các tác phẩm, bài nói, bài viết của mình, Hồ Chớ Minh nhiều lần đề cập đến luận điểm trên. Năm 1947, trong Thư gửi các bạn thanh niên, Hồ Chí Minh đòi hỏi, thanh niên, nhất là cỏn bộ Đoàn, phải thực hiện cho được: “ Các sự hi sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước (tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc)”1. Năm 1955, trong bài Đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng đại đa số chiến sĩ cách mạng là những người có đạo đức, cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường thì gương mẫu, gian khổ, chất phác, nghĩa là: “ Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ”2. Tháng 3- 1961, trong bài xây dựng những con người phải ra sức góp công, góp sức để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” mà phải “ chí công, vô tư” và phải có tinh thần “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là đạo đức của người cộng sản”3. Tiếp đó, tháng 12/1961, nói chuyện với những cán bộ, đảng viên đang hoạt động lâu năm ở Nghệ An, Hồ Chí Minh chỉ rõ, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Sự khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau. Chắc các đồng chí đều hiểu câu: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” chứ không phải là “ Tiên thiên hạ chi lạc nhi lạc, hậu thiên hạ chi ưu nhi ưu”.
Trong tác phẩm, Hồ Chí Minh đã nêu lên những thắng lợi to lớn với cách mạng Việt Nam mà một trong những nguyên nhân tạo nên các thắng lợi đó chính là sự gương mẫu, tận tụy của cán bộ, đảng viên, đi đầu, lãnh đạo toàn dân thực hiện:
Một là, “ làm cách mạng Tháng Tám thành công”.
Về ý nghĩa thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh viết: “ Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nữa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đó lãnh đạo cách mạng thành công, đó nắm chính quyền toàn quốc”1.
Hai là, “ kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi”, tức là thắng lợi của cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp ( 1945 – 1954 )
Theo Hồ Chí Minh, với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, “ Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đó đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xó hội chủ nghĩa trên thế giới”1.
Ba là, “ Ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu nước vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Hai nhiệm vụ ấy đều nhằm một mục tiêu chung là: củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên nền tảng độc lập và dân chủ”. Thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ ấy là cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt, lâu dài nhưng Hồ Chí Minh tin tưởng sâu sắc rằng đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta, nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam; là sự hi sinh, phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đó đặt vấn đề: “ Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Người trả lời: “ Trước hết, phải có Đảng cách mệnh”2.Trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chớ Minh chỉ rõ: “ Đảng ta lãnh đạo rất sáng suốt, đó đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng, từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Theo Hồ Chí Minh, những thắng lợi đó được tạo nên bởi rất nhiều cán bộ, đảng viên đó lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người viết: “Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hàng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ đảng viên, tỏ ra rất anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đó làm nên những thành tích rất vẻ vang”.
Trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh không kể tên những cán bộ, đảng viên “gian khổ đi trước, hưởng thụ theo sau”. Tuy nhiên, nhiều lần Hồ Chí Minh đã nói trong Đảng ta có cả trăm nghìn cán bộ, đảng viên đó đặt lợi ích giai cấp, dân tộc lên trên hết, trước hết, đó sẵn sàng hi sinh hết thảy, hi sinh cả tính mạng mình cho Đảng, giai cấp, dân tộc, đó đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay. Những người được Hồ Chí Minh nhắc đến nhiều lần là Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ... Năm 1960, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đó nêu dẫn chứng điển hình về sự phấn đấu hy sinh của những đảng viên cấp cao: “Trong 31 đồng chí hiện nay là Uỷ viên Trung ương ta, trước ngày khởi nghĩa đó được đế quốc Pháp tặng cho 222 năm tù đày. Đó là không kể những án tử hình vắng mặt và những cuộc vượt ngục trước khi hết hạn ở tù”1.
- Hồ Chi Minh nhiều lần chỉ rõ tuổi trẻ là mùa xuân của đất nước, thanh niên là đội hậu bị của Đảng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một vấn đề chiến lược. Mùa xuân năm 1952, Hồ Chí Minh gửi thư chúc tết gần 100 thanh niên nam, nữ kiểu mẫu trên tất cả các lĩnh vực: bộ đội, dân công, công nhân, nông dân, sinh viên, trí thức..., trong đó người trẻ nhất 16 tuổi, người lớn nhất 30 tuổi 2.Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “ Đảng ta đó đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác”. Những thanh niên gái, trai cách mạng được Hồ Chí Minh thường nhắc đến là Lý Tự Trọng, Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý... Người tôn vinh: “ Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế”.
2. Những tật bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên
Mở đầu phần viết về thực trạng chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh cho rằng, “ bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém”, “ mang nặng chủ nghĩa cá nhân”.Trước đó, trong các tác phẩm, bài nói, bài viết của mình Hồ Chí Minh thường sử dụng hai cụm từ có nội  hàm cơ bản giống nhau là: chủ nghĩa cá nhân và cá nhân chủ nghĩa. Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng mà Người trình bày đặc trưng, bản chất và những biểu hiện chính của chủ nghĩa cá nhân. Khi trình bày quan điểm của mình về chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh xuất phát từ thỏi độ, mối quan hệ giữa cá nhân với Tổ quốc, với chế độ, với nhân dân, với công việc, với các truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chuẩn mực đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách mạng, cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân. Trong mối quan hệ với chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng: “ Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”1.
- Hồ Chí Minh thường căn dặn, cách mạng và những người cách mạng phải chiến thắng ba kẻ thù:
+ Chủ nghĩa tư sản và bọn đế quốc;
+ Thói quen và truyền thống lạc hậu;
+ Chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh gọi chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm, kẻ địch ở bên trong.
Người so sánh: “ Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Vì vậy, tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là kiên quyết chống mọi kẻ thù, đồng thời với đấu tranh đến cùng chống ngoại xâm theo tinh thần “ hễ con một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, phải kiên quyết “ quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Người nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, là bệnh chính, bệnh mẹ sinh ra trăm thứ bệnh nguy hiểm khác. Có thể nêu trên 10 loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân mà Hồ Chí Minh đó chỉ ra trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết trước đó.
          1 - Bệnh quan liêu. Quan liêu là bệnh của những người và những cơ quan lãnh đạo xa rời thực tế, xa bộ đội, xa nhân dân, mất dân chủ. Các ông quan liêu khi được phân công phụ trách ở vùng nào, việc gì thì như một ông vua con, tha hồ hạch sách, hoạnh họe ở vùng ấy, lĩnh vực ấy. Đối với cấp trên thì xem thường, với cấp dưới cậy quyền lấn át, với quần chúng thì quan cách. Bệnh quan liêu để lại những hậu quả nặng nề đối với Đảng, Nhà nước và xã hội, trước hết là tham ô, lãng phí cần phải tiêu diệt bệnh quan liêu.
          2- Bệnh tham lam. Những người mắc bệnh này đều đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn   “ mọi người vì mình”, chà đạp lên lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Do đó họ tự tư, tự lợi”, dùng của công làm việc tư, dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình, tham ô, hủ hoá, sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi.
          3- Bệnh lười biếng. Tự cho mình cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Ngại khó khăn, gian khổ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình, việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách trốn tránh.
          4- Bệnh kiêu ngạo. Tự cao, tự đại, hay lên mặt. Ưa người ta khen ngợi, tâng bốc mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang, vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn người khác phê bình mình. Việc gì cũng muốn làm thày người khác.
          5- Bệnh hiếu danh. Tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Vì tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay. Những người đó chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, uỷ viên nọ, chứ không ham công tác thiết thực.
          6- Bệnh “ hữu danh, vô thực”. Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suy ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch.
          7- Bệnh cận thị. Không trông xa, thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chút những việc vụn vặt. Những người như vậy chỉ trông thấy sự lợi, hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi, hại to lớn.
          8- Bệnh tị nạnh. Cái gì cũng muốn “bình đẳng”, sinh ra hiểu lầm hai chữ “bình đẳng”. Không hiểu rằng người khỏe gánh nặng, người yếu gánh nhẹ. người làm việc nặng phải ăn nhiều, người làm việc dễ thì ăn ít.
Thế mới là bình đẳng.
          9- Bệnh xu nịnh, a dua. Những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái.
          10- Bệnh kéo bè, kéo cánh. Ai hợp với mình thì người xấu mấy cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, núi xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Từ đó đi đến bè phái, chia rẽ, mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
          Sự phân tích hệ thống, sâu sắc, chính xác của Hồ Chí Minh về những biểu hiện chính của chủ nghĩa cá nhân dưới các dạng bệnh cho thấy hệ thống này đối lập với đạo đức cách mạng, có hại cho cách mạng. Trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “ Tóm lại, do chủ nghĩa cá nhân mà phạm nhiều sai lầm”.
          Hiện nay, những tật bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân vẫn đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm giảm sút niềm tin của nhân dân. Ôn lại những lời dạy của Hồ Chí Minh là cơ sở để cán bộ, đảng viên tự phê bình, phê bình dưới sự giám sát, góp ý của nhân dân.
          3. Giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân
          Hồ Chí Minh khẳng định, đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân, do đó, nâng cao đạo đức cách mạng không thể tách rời với chống chủ nghĩa cá nhân, luôn luôn gắn xây với chống. Xây là để nâng cao đạo đức cách mạng, chống là hướng tới mục tiêu quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh chủ trương, “ Phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng” và nâng cao đạo đức cách mạng để tăng sức mạnh chống chủ nghĩa cá nhân. Những giải pháp chủ yếu để nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh đề cập sáng rõ trong bài viết nhân kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng.
          - Giải pháp từ phía Đảng
          Cán bộ, đảng viên là những người của tổ chức. Do đó Hồ Chí Minh đòi hỏi, để nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Những giải pháp chủ yếu để nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên, Đảng phải:
          Thứ nhất, tăng cường giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên.
          Thực chất đây là giải pháp nhằm thiết lập nền tảng tư tưởng, lý luận, kim chỉ nan cho hành động, tạo dựng cái nền, cái gốc của toàn Đảng và với mỗi cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những quy luật của cách mạng Việt Nam, phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng nước nhà; một lũng, một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc.
          Thứ 2, thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng.
          Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là phương thuốc hay nhất, giúp cho toàn Đảng và mỗi đảng viên sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng, ngày một mạnh thêm. Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cỏn bộ,  đảng viên phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như rửa mặt mỗi ngày. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh và Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng.
          Nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh có nghĩa là:
          + Tự tự phê bình và phê bình phải có tình đông chí đồng chí thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, thấu lý, đạt tình.
          + Tự phê bình và phê bình phải ráo riết, triệt để, không nể nang, không thêm, không bớt, không dùng những lời mỉa mai, cay độc, châm chọc, phải vạch rõ cả ưu điểm lẫn khuyết điểm, phê bình căn cứ vào việc làm, chứ không suy diễn, quy kết.
          Hồ Chí Minh căn dặn, khi tự phê bình và phê bình cần phải đề phòng:
          + Những cán bộ, đảng viên đầu cơ, lợi dụng phê bình để “ đập cho tơi bời”, để đạt mục đích tự tư, tự lợi.
          + Những cán bộ, đảng viên “ dĩ hoà vi quý”. Đó là những người miễn sao cho xong chuyện, không tự phê bình cũng chẳng phê bình ai.
          + Những cán bộ cực đoan, máy móc, thái độ “ đối với những người có khuyết điểm và sai lầm ... như đối với hổ mang, thuồng luồng” 1.
          Thứ ba, chế độ sinh hoạt và kỷ luật đảng phải nghiêm minh. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất, là đội tiền phong của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Do đó, chế độ sinh hoạt đảng từ chi bộ đến cấp cao phải nghiêm túc. Hồ Chí Minh rất coi trọng chi bộ đảng. Người cho rằng “ CHI BỘ TỐT, THÌ MỌI VIỆC ĐỀU TỐT”2.Với người cộng sản, sự nghiêm minh, chặt chẽ không tách rời tinh thần tự nguyện, tự giác. Hồ Chí Minh viết: Về kỷ luật, Đảng lao động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác. Người chỉ rõ, muốn nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.
- Giải pháp từ phía cán bộ, đảng viên
          Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phải phát triển và cũng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Vì vậy đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên phải bền bỉ, trau dồi, hun đúc, nâng cao đạo đức cách mạng. Trong bài: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh chỉ rõ
          Thứ nhất, “ Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết”.
          Trong điều kiện Đảng cầm quyền, số đông cán bộ, đảng viên là những người có chức, có quyền; gắn liền với chức, quyền là danh và lợi. Do đó, đây là mối quan tâm, là vấn đề được Hồ Chí Minh trở đi, trở lại nhiều lần. Người căn dặn, Đảng là đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động chứ không mưu cầu cho lợi ích của một nhóm người nào, một cá nhân nào. Đảng viên là người thay mặt Đảng, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp. Đảng và giai cấp thắng lợi và thành công tức là đảng viên thắng lợi và thành công. Nếu rời khỏi Đảng và giai cấp thì cá nhân dự tài giỏi đến mấy, cũng nhất định không làm nên việc gì. Hồ Chí Minh khẳng định: “ Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”1.
          Thứ 2, “ Phải đi sâu sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”.
          Mối quan hệ Đảng – Dân luôn là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Dân chúng đồng lũng, việc gỡ cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”2. Người nhận xét, trong đấu tranh giành chính quyền va trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, mối quan hệ Đảng – Dân gắn bó rất chặt chẽ; từ khi hoà bình lặp lại, đi vào xây dựng đất nước thì số cán bộ, đảng viên quan liêu, xa rời quần chúng có xu hướng tăng lên. Tháng 12 – 1958, Hồ Chí Minh viết: Hiện nay, chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình làm gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng, mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Hồ Chí Minh phê phán những cỏn bộ, đảng viên xa rời thực tế, bắt quần chúng làm theo ý muốn, tư tưởng chủ quan của mình. Người gọi đó là những cán bộ, đảng viên làm việc theo cách khoét chân cho vừa giầy. Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc của ta. Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy. Người kết luận: “ Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”1.
IV. GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN.
          Mặc dù bài viết ra đời cách đây gần 40 năm, nhưng những tư tưởng, quan điểm được Hồ Chí Minh nêu trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân vẫn giữ nguyên giá trị, luôn luôn được đặt trong chương trình nghị sự của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng và được quan tâm sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, qua tác phẩm của Người, chúng ta cần nhận thức sâu sắc một số vấn đề sau đây:
          - Trước hết, Đảng ta phải thể hiện khả năng trí tuệ của mình, đề ra được đường lối đúng đắn, đưa cách mạng nước ta vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục tiến lên. Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đó thể hiện sự đúng đắn bằng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 20 năm qua. Những thành tựu đó cũng đó chứng minh các quan điểm do Hồ Chí Minh nêu lên từ năm 1960: Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Trong giai đoạn phát triển mới, đất nước ta có nhiều cơ hội mới, đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thách thức. Đổi mới là sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ. Cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để tiếp tục cụ thể hoá hơn nữa đường lối đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đảng phải lãnh đạo sáng suốt, đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng, từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, như Hồ Chí Minh đó khẳng định trong bài:  Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân .
          - Hồ Chớ Minh luôn khẳng định cán bộ là gốc của mọi công việc, đạo đức là gốc của người cán bộ, muốn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Trong bài : Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đánh giá, trong thực tế sản xuất và chiến đấu xây dựng chủ nghĩa xó hội, chống Mỹ, cứu nước “ rất nhiều cán bộ, đảng viên tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ theo sau”. Thành tựu to lớn của 20 năm đổi mới đó chứng tỏ đa số cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước vẫn xứng đáng với lời khen của Hồ Chí Minh từ năm 1969.
          Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX tháng 1 – 2004 khẳng định: Qua thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho thấy, phần lớn cán bộ, đảng viên hiện nay tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự nghiệp lãnh đạo của Đảng. “ Nhiều cán bộ, đảng viên đó phát huy được vai trò gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, rèn luyện đạo đức, lối sống, năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm; có phong cách làm việc, dân chủ, nói đi đôi với làm”1. Quan điểm trên tiếp tục được quán triệt trong Văn kiện Đại hội X. Báo cáo về công tác xây dựng Đảng trong văn kiện Đại hội X nêu rõ: “ Cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiền phong, năng động, sáng tạo trong công tác, lao động rèn luyện phẩm chất, năng lực, có bước trưởng thành, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành quả chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
          Trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạnh sự phát triển của đất nước, rất cần sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, biết cách tổ chức quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cán bộ nào, phong trào đó. Rõ ràng, trong giai đoạn hiện nay việc quan tâm xây dựng, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất đạo đức, có năng lực sáng tạo, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là rất quan trọng.
          - Qúa trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tạo ra cho chúng ta cơ hội để phát triển, mà cả những tác động tiêu cực vào đạo đức, lối sống. Biểu hiện cụ thể là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đó trở nên nghiêm trọng hơn, xuất hiện trong tất cả các bộ phận cấu thành của bộ phận chính trị, trên tất cả các lĩnh vực, từ trung ương đến địa phương và cơ sở.
          Thực trạng này đó được Hồ Chí Minh cẩn báo từ rất sớm mà nguyên nhân , như Bác đó chỉ rõ, là do một bộ phận cán bộ, đảng viên “ đang mang một ba lô chủ nghĩa cá nhân”1.Vì vậy, học tập và làm theo những lời dạy của Hồ Chí Minh, “ Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” lúc này càng trở nên rất quan trọng và cần thiết.
          - Phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong hệ thống chính trị, trước hết là trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, công chức nhà nước phải bắt đầu từ phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt để nâng cao đạo đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
          Những giải pháp, từ phía các cơ quan đảng đến cán bộ, được Hồ Chí Minh nêu ra trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân cách đây gần 40 năm vẫn còn nguyên giá trị, vì đó là những giải pháp rất cơ bản và rất thiết thực, phải làm thường xuyên. Thực hiện những giải pháp này, cần nhấn mạnh một luận điểm của Hồ Chí Minh, đó là, để biến chủ trương, chính sách thành hiện thực không cần chỉ giải pháp đúng mà cần hơn là sự quyết tâm và dũng khí thực hiện giải pháp ấy. Các chuyên gia nghiên cứu chống tham nhũng trên thế giới đều khẳng định, chống tham nhũng trước hết không bắt đầu bằng “ đạo luật sắt” mà phải bắt đầu từ quyết tâm chính trị của người lãnh đạo; không chỉ bằng “ bàn tay sắt”, mà trước hết phải bằng “ bàn tay sạch”. Trong tổ chức lực lượng và tiến trình thực hiện cần tuân theo lời dạy của Hồ Chí Minh: “ Có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ mà phải có biện pháp cụ thể, vững chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để thực hiện bằng được kế hoạch đó đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp phải 2 phần, cố gắng phải 3 phần”1.
Chuyên đề 3
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM:
Tháng 9 năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cùng với những hình ảnh ghi lại tình cảm của toàn dân khắp bốn phương, bản Di chúc của Bác Hồ kính yêu được công bố.
Theo đó, năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Bản Di chúc đầu tiên gồm 4 trang, do tự tay Người đánh máy ở cuối trang đề ngày 15-5-1965. Bản Di chúc Người viết năm 1965 là bản duy nhất hoàn chỉnh, dưới có chữ ký của Người và bên cạnh có chữ ký chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc bấy giờ.
Năm 1968 Người viết bổ sung thêm một số đoạn gồm 6 trang viết tay. Ngày 10-5-1969 Người viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc gồm một trang viết tay (những năm 1966, 1967 không có bản viết riêng).
Bản Di chúc công bố năm 1969 chủ yếu dựa vào bản Người viết năm 1965 (trong đó đoạn mở đầu là bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là phần đầu bản viết năm 1968).
Đến năm 1989, Bộ Chính trị cho phép công bố các Bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Căn cứ theo tài liệu công bố của Bộ Chính trị (trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập – Tập 12) các Bản thảo Di chúc được sắp xếp theo thứ tự thời gian Người viết, các bản bút tích được in trước, sau đó các bản đánh máy và bản in được in tiếp sau đó. Cuối cùng là bản Di chúc công bố chính thức năm 1969

HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM:
          Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó tự cảm nhận được sức khỏe của Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75 Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy “tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, nhưng Người dự báo “Ai dám biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm tháng nữa”. Rõ ràng Hồ Chí Minh đó dự cảm được thời khắc quan trọng của thời gian còn lại ở cuối cuộc đời mình. Từ dự cảm đó, Người viết: “Vì vậy, tôi để lại  mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”.
          Vì vậy, Người đó chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, toàn dân tộc, với cách mạng Việt Nam và với cách mạng thế giới.

NỘI DUNG CHÍNH:
Phần đầu: Về sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định giải phóng miền Nam và qua đó, giải phóng hoàn toàn và thống nhất đất nước như một tất yếu, dù phải kéo dài, đặc biệt ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Người đã nói: "Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay". Sự thật đó diễn ra như Người đoán. Bác mất năm 1969, sáu năm sau, dân tộc Việt Nam giành đại thắng tháng 4/1975.
Phần thứ hai: Nói về Đảng, về Đoàn viên và thanh niên. Về Nhân dân lao động, cuộc kháng chiến chống Mỹ, về phong trào cộng sản thế giới, cuối cùng là về việc riêng.
Trước hết nói về Đảng: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Như chúng ta đã biết, từ những ngày đầu mới thành lập cho đến  nay, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong mỗi thời kỳ cụ thể của Cách mạng.
Bác Hồ chính là nhà chiến lược và sách lược tài tình, nhà tổ chức lực lượng thiên tài, nhà cổ động chính trị vĩ đại, người có công rèn luyện, giáo dục bao lớp cán bộ ưu tú của Đảng, Người đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong những điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ một Đảng Cộng sản cầm quyền, sau Lênin, đó nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền cùng những lo lắng, răn đe. Không phải chỉ trong Di chúc, mà hầu hết những tác phẩm của Hồ Chí Minh từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản bắt đầu cầm quyền sau Cách mạng tháng Tám, ngay sự cầm quyền ấy chưa hoàn toàn trong phạm vi cả nước, vừa xây dựng chính quyền vừa kháng chiến, Người đó luôn luôn nhắc đến việc chính quyền do Đảng Cộng sản phải là chính quyền vì dân do dân, gắn bó với dân, trung thành với dân, người đầy tớ trung thành của dân. Bức thư đầu tiên Người gửi các đồng chí Bắc Bộ năm 1947, khi kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu vài tháng và khi mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa chưa ai cảnh giác con đường hiểm nguy của Đảng Cộng sản cầm quyền mà thoát ly nguyên lý cộng sản cơ bản - tức phục vụ dân, lấy dân làm gốc - theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo động với ý thức và lời lẽ vừa thiết tha vừa nghiêm khắc, lấy sự việc ngay trong đời sống hằng ngày. Cho nên, bài học lớn nhất mà chúng ta rút ra từ Di chúc của Người chính là phần cốt lõi này.
Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất, đoàn kết, gắn bó với nhân dân, đại diện cho quyền lợi của giai cấp và của dân tộc, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, ủng hộ, giúp đỡ. Điều này làm chúng ta càng thấm thía lời cǎn dặn của Bác trước lúc đi xa: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân hǎng hái đấu tranh từ thắng lợi này đến thắng lợi khác""Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau..."
Muốn có được sự đoàn kết nhất trí đó, như Bác đã nói là ngay trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Là một người theo chủ nghĩa cộng sản, là người phương Đông đồng thời cũng là người con của đất Việt, lịch sử hàng ngàn năm đó đặt cho trí tuệ của Người sự suy nghĩ có chiều sâu, bao quát bởi bao nhiêu triều đại ngả nghiêng khi không hiểu lời của Nguyễn Trãi: Dân nâng thuyền và dân có thể lật thuyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần lời dạy của người xưa: Tu thân, tề gia, trị quốc. Đảng Cộng sản cầm quyền mà không coi trọng tu thân thì khó tề gia, càng khó trị quốc. Đảng lãnh đạo gồm năng lực tiên phong và đạo đức tiên phong. Bài học này đâu cũng có, lúc nào cũng có. Đảng không gương mẫu, nặng tư lợi, nặng chức quyền thì Đảng chỉ còn là một hàng hội. Đảng viên háo danh, tự ca ngợi mình mà tham lam, lợi dụng chức quyền, dung túng cho vợ con thân thuộc phạm các tội lừa đảo, ăn hối lộ, buôn lậu... tức vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội thì còn tệ hơn một tội phạm thường dân. Tiên phong là làm gương, lãnh đạo là dẫn đường - không làm gương thì chẳng thể dẫn đường đúng.
Chúng ta luôn ghi nhớ rằng, tư cách, phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi công dân không phân biệt bất cứ ai mà Bác thường xuyên căn dặn, nhắc nhở là cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
Theo Bác Hồ:
Người có nhân là người có tấm lòng nhân hậu, tình thương yêu, giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Nhân là tâm và tâm là nhân.
Người có nghĩa là người có chí khí, lòng dạ ngay thẳng, không có tư tâm, tà tâm, không lắt léo, không uốn cong cuộc đời, không luồn cúi, xu nịnh, xu thời. Trọng nghĩa là đức tính của con người.
Người có trí là người có đầu óc sáng suốt, trong sạch, biết xem người, biết xét việc, biết nhân tình thế thái mà liệu bề ứng xử.
Người có dũng là người dũng cảm, gan góc, có gan bảo vệ lẽ phải, có gan đấu tranh với những việc làm sai trái, không sợ khó, không sợ khổ, có gan chịu đựng để mưu cầu việc lớn.
Người có liêm là người không tham địa vị, tiền tài, sự quyến rũ mềm yếu, quan minh chính đại, sống cuộc đời liêm khiết, tử tế, đàng hoàng.
Cần là cần cù, cần mẫn trong công việc, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương, lao động vì lợi ích chung và lợi ích riêng mình.
Kiệm là tiết kiệm, không xa hoa lãng phí, không tiêu xài bừa bãi, không lấy của công làm của riêng; tiết kiệm nhưng không bủn xỉn, cái gì đáng tiêu dù phải mất số tiền lớn cũng phải tiêu, cái gì không đáng tiêu dù chỉ là một đồng cũng không được tiêu.
Bác căn dặn cho cán bộ, đảng viên một luận điểm quan trọng như sau: “Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, “Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”... Bác Hồ có nhắc nhở rằng trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vụ lợi ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và cộng đồng thì đó là “kẻ thự nội xâm” nguy hiểm khôn lường.
Như Bác đó dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đó. Trước hết, mình phải làm gương. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đó làm được và đã thành công. Muốn làm được ta phải: quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất cả các đồng chí phải thành công”.
Mục đích xây dựng một xã hội đạo đức, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bộ là lý tưởng sống của Hồ Chí Minh. Người lo sợ về một xã hội vô đạo đức, lo sợ cho một đội ngũ cán bộ vô đạo đức, thoái hóa, biến chất, và vô đạo đức sẽ đẻ ra biết bao tai họa mà chính Người đó được chứng kiến nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức con người là một vấn đề mà Người suốt đời quan tâm.
Tiếp theo trong di chúc, mối quan tâm thứ hai sau khi nói về Đảng, là giới trẻ, trong di chúc Bác căn dặn:
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Người chỉ ra rằng muốn giáo dục cộng sản cho đoàn viên thanh niên phải gắn liền việc học tập, rèn luyện của họ với cuộc đấu tranh chung của xã hội. Người nói: "Đoàn thanh niên cộng sản chỉ xứng đáng với danh hiệu của nó là đoàn thể của thế hệ cộng sản trẻ tuổi, nếu biết gắn từng bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với việc tham gia cuộc đấu tranh chung của những người lao động chống lại bọn bóc lột".
Cũng với quan điểm ấy, Bác Hồ đó dạy: "Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội".
Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành rất nhiều tình cảm lớn lao cho thế hệ trẻ, thế hệ mà Người khẳng định sẽ là người chủ tương lai, là rường cột của nước nhà. Điều đó thể hiện rất rõ qua các cuộc gặp gỡ và qua nhiều bài viết của Người dành cho thế hệ trẻ (theo Người, thế hệ trẻ bao gồm: thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trong đó thanh niên là lực lượng quan trọng nhất), đồng thời chính Người tổ chức huấn luyện, lãnh đạo và rèn luyện phát triển lực lượng thanh niên cách mạng Việt Nam.
Ngay từ thời niên thiếu, được trực tiếp chứng kiến các phong trào yêu nước của nhân dân dân ta đầu thế kỷ XX như: phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Người đã thấy rõ sự đóng góp của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển bền vững của dân tộc. Họ là lực lượng tham gia đông đảo và nhiệt tình nhất, hùng hậu nhất, dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lăng, là những con người có lý tưởng, giàu đức hy sinh, sẵn sàng xả thân và trở thành một lực lượng chủ yếu của cách mạng.
Tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nhận ra rằng cách mạng muốn thành công, trước hết phải tập hợp lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng này giác ngộ cách mạng, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vai trò của lực lượng thanh niên được Người khẳng định là rất quan trọng. Tháng 6/1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, qui tụ tất cả những thanh niên Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết vào trong một tổ chức thống nhất. Từ đây, những hoạt động của Hội chính là nhân tố quan trọng và ảnh hưởng đến việc ra đời các tổ chức cộng sản và việc thành lập Đảng sau này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không những chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi trẻ trong cách mạng mà Người còn chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến thiết xây dựng nước nhà. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Người gửi gắm niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Năm 1947, Ngư khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên”.
Hồ Chí Minh xem xét thanh niên một cách toàn diện, thấy rõ vị trí, vai trò của thanh niên: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dân dắt thế hệ thanh niên tương lai”, vì vậy, Người yêu cầu, đòi hỏi thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập, xung phong gương mẫu trong công việc. Gắn yêu cầu đặt ra đối với thanh niên, hiểu rõ vị trí, vai trò to lớn của thanh niên, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên và chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi dưỡng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cho Đảng đối với công tác giáo dục thanh niên và xem đây là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan giáo dục, đến các đoàn thể quần chúng: “Đoàn viên, thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Theo Người, cách mạng là sự nghiệp lâu dài khó khăn và là trách nhiệm của nhiều thế hệ. Vì vậy, việc bàn giao thế hệ không chỉ là trao lại những gì đã có mà điều quan trọng và khó khăn hơn nhiều là chuẩn bị và trang bị cho thế hệ sau những điều cần thiết, định hướng cho thanh niên những công việc phải làm để họ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Chính vì vậy, vấn đề quan tâm, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ chính là thực hiện theo quy luật khách quan nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước không ngừng phát triển.
Vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người căn dặn thanh niên phải: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và yêu kỷ luật”.
Việc giáo dục, bồi dưỡng cho một thế hệ là công việc hết sức công phu và bền bỉ, vì vậy, Người quan niệm việc giáo dục, đào tạo và rèn luyện cho thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người” và Người nêu tư tưởng chiến lược: “Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người”. Công tác giáo dục phải tạo nên một thế hệ vừa giỏi chuyên môn, có trình độ cao, phù hợp với sự phát triển của xã hội; đồng thời phải có đạo đức cách mạng, phải trở thành là lực lượng “vừa hồng, vừa chuyên”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”, và “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ phải “vừa hồng vừa chuyên”. “Hồng” là phẩm chất đạo đức cách mạng. Người răn dạy cán bộ phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân” thì mới xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Đặt chữ “Đức” lên hàng đầu, nhưng Hồ Chí Minh vẫn luôn coi trọng cái “Tài”. Người nhìn nhận “Đức” và “Tài” trong mối quan hệ biện chứng, như hai mặt không thể tách rời trong một nhân cách hoàn thiện: “Có tài mà không có đức là người vô dụng” nhưng “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.

Có “Tài” mà thiếu cái “Đức”, thì “Tài” đó không có ý nghĩa. Không những thế, cái “Tài” thiếu “Đức” còn có thể gây hại cho chính bản thân và cả cộng đồng.
Cái “Đức” làm người ta thanh thản. Cái “Tài” làm con người nở hoa. Thiếu “Tài” con người vẫn còn có thể sống trong an ủi. Thiếu “Đức”, cuộc đời luôn là những bi kịch.
Người có “Đức” tức là người luôn ý thức được việc hoàn thiện mình. Điều ấy cũng có nghĩa, cái “Đức” trở thành động lực để hoàn thiện cái “Tài”. Vì thế, bắt đầu việc học làm người từ cái “Đức”, sẽ nhận được sự hoàn thiện. Bắt đầu chỉ từ cái “Tài”, số phận sẽ ẩn chứa những bi kịch khó lường.
Đặt “Đức” ở vị trí gốc rễ luôn đúng với mọi thời đại. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi những yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường đang hằng ngày tác động vào suy nghĩ, nhận thức của từng cá nhân trong xã hội.
Trong một xã hội ngày càng đòi hỏi nhiều tri thức như hiện nay, chữ “Tài” đang chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nhiều con người tài năng sẽ góp phần dựng xây đất nước Việt Nam giàu đẹp. Thế nhưng, đôi khi vì quá chú trọng cái “Tài”, có một số người đã thiếu tu dưỡng chữ “Đức”. Từ ấy đó nảy sinh ra những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những kẻ quyết tâm leo lên con đường quan chức bằng mọi giá để rồi quay lại nhũng nhiễu nhân dân, tham ô tài sản nhà nước.
Tham nhũng đó bị Đảng ta coi là một trong những “nguy cơ” lớn. Mà bản chất của tham nhũng chính là đạo đức xuống cấp. Do đó, đấu tranh chống tham nhũng cũng chính là việc đấu tranh chống lại tệ sùng bái cá nhân chủ nghĩa, chống lại nạn suy thoái đạo đức.
Rõ ràng, các tiêu chuẩn mà Hồ Chí Minh nêu ra về đức - tài của người cán bộ cách mạng là yêu cầu cụ thể đối với mỗi người cán bộ, chứ không phải chỉ là điều mong muốn, là lời nói suông. Đức – Tài là hai nhân tố làm cho cán bộ nói riêng, con người nói chung trở nên hữu ích đối với xã hội, không thể tách rời cũng không thể tuyệt đối hoá mặt này mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia.
Tóm lại, những quan điểm của Hồ Chí Minh về “vừa Hồng vừa Chuyên”, Đức - Tài của người cán bộ cách mạng cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và sức sống trong thực tiễn. Nó càng có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Chúng ta đang có nhiều tấm gương đảng viên, đoàn viên và cán bộ được dân tin, dân yêu, được như vậy là do các đồng chí đó tự mình rèn luyện và thực hiện tốt lẽ sống mình vì mọi người, trong đó lời nói luôn đi đôi với việc làm, lấy việc mình làm để cổ vũ người khác.
Về việc riêng – Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân
Đây là phần di chúc ngắn nhất trong bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.  Toàn bản di chúc là để lại cho “đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi”
Ở phần này chúng ta có thể thấy rằng nếu “Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác…” thì Bác Hồ “sẽ không có điều gì phải hối hận…”  tuy nhiên Người chỉ tiếc một điều đó là: “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.” Qua đây thể hiện tấm lòng hết mình tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc của Người.
Bản thân Bác suốt đời là một tấm gương trong sáng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vỡ mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh vác việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm, ngày, nhẫn nhục, cố gắng vì mục đích đó...".
Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định đều phải thật sự vì dân. Cán bộ, nhân viên phải thật sự gương mẫu; Phải nêu cao tinh thần "Cần, kiệm, liêm, chính". Ngay trong buổi đầu xây dựng Nhà nước cách mạng non trẻ, Người đó xác định mục tiêu hoạt động của Nhà nước là:
"1. Làm cho dân có ăn
2. Làm cho dân có mặc
3. Làm cho dân có chỗ ở
4. Làm cho dân có học hành"
Người giải thích: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu, để giành độc lập... chúng ta tranh được độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập, cũng không làm gì".
Người khuyên cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, phải thật sự là người đầy tớ của nhân dân. Bác đã làm gương trước, sống giản dị, thanh bạch, khiêm tốn để làm đúng điều người dạy: “Cán bộ Đảng, chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết lũng hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính”.
Vào dịp ngày sinh của mình, Người thường tìm cách vắng nhà để tránh việc mọi người đến chúc thọ, tặng quà. Bác làm việc này để thực hiện điều Người dặn các cơ quan, các địa phương là đến ngày sinh của Người không tổ chức kỷ niệm chúc thọ để tránh lãng phí thời giờ, tiền bạc. Khi đi vào cõi trường sinh, Người dặn không tổ chức điếu phúng linh đình để tiết kiệm tiền của nhân dân...
Bác căn dặn cán bộ, đảng viên sống trong sạch, không cậy quyền thế mà đục khoét, nhất là những người có chức, có quyền phải gương mẫu. Đồng bào Thái Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác san sẻ quà đó với người khác cùng hưởng: “Hôm chủ nhật đồng bào Thái Bình có cho tôi 2 chai nước mắm làm bằng tôm. “Vật khinh tình trọng”, từ chối không được, tôi phải nhận lấy cho bằng lòng anh em. Nay tôi xin gửi biếu Cụ 1 chai (cụ Bùi Bằng Đoàn) và xin chúc Cụ mạnh khỏe”. 
Trong dịp Bác sang thăm Liên Xô, ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Xô Viết gửi cho Bác 4000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1000 rúp. Trước khi rời Matxcơva , Bác đó gửi lại Ủy ban Trung ương Đảng Xô Viết 5000 rúp đó...
Nói đi đôi với làm, những việc Bác làm đều là “mực thước” cho mỗi chúng ta, đó chính là lẽ sống “Thật” và “Thật sự”. Vì “Thật” đối lập với giả, với dối. “Thật sự” đối lập với qua loa, nửa vời. Đó là “Thuốc hay đắng miệng chữa được bệnh; lời thẳng trái tai lợi cho việc làm” (Khổng Tử) - là thứ vũ khí hữu hiệu để chống lại những kẻ gian giảo, xảo quyệt nói không đúng với làm, nói một đằng làm một nẻo, dùng lời nói để giấu giếm tội lỗi, làm trắng đen lẫn lộn, chính tà bất phân, như Bác đó chỉ cho chúng ta: “Có những kẻ miệng thì nói phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng bị vật chất dỗ dành mà phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến Tổ quốc, nhân dân”.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết  quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần  đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ.
  Đó là một cách thiết thực để học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Chuyên đề 4:
"Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh
"là đạo đức là văn minh"

Phần I.
Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”
1. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam
– Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX, sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam chỉ phát huy cao độ khi được tập hợp, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
– Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng của Người luôn luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
– Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với công tác xây dựng Đảng, trước hết từ sự kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên lý xây dựng Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh; từ công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
2. Quán triệt tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược cơ bản, lâu dài và thực tiễn trước mắt của công tác xây dựng Đảng
– Xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc trước đây, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới ngày nay luôn luôn đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, đủ năng lực lãnh đạo, đáp ứng tốt yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng.
– Trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa cách mạng và phản cách mạng, vấn đề trọng tâm, lĩnh vực diễn ra gay gắt nhất, quyết liệt nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và công tác xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển của đất nước lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
– Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
– Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng là sinh hoạt chính trị toàn diện, rộng lớn và sâu sắc. Việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh là dịp để các tổ chức Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên ôn lại và nâng cao nhận thức lý luận về xây dựng Đảng, nhìn lại công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ vừa qua, đánh giá đúng những thành tựu, ưu điểm cũng như những khuyết điểm, hạn chế, nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, góp phần tích cực vào thành công của đại hội Đảng các cấp và Đại hội XI của Đảng.
Phần II. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, “Là đạo đức, là văn minh”
Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều bài nói, bài viết về công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng rất phong phú, trong đó tập trung vào những điểm chủ yếu sau:
1. Cách mạng cần có Đảng. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”
– Cách mạng Việt Nam “trước hết phải có Đảng cách mệnh” (1). “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” (2). “Chủ nghĩa” mà Người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác – Lênin.
– Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin như sau:
Một là, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là hiểu bản chất của các vấn đề; hiểu đúng để hành động đúng.
Hai là, phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp với từng lúc và từng nơi, từng lĩnh vực.
Ba là, thường xuyên tổng kết thực tiễn cách mạng rút ra những bài học kinh nghiệm cho mình và bổ sung, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bốn là, đấu tranh chống những luận điểm cơ hội, xuyên tạc, xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Năm là, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng khối đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế, “có lý có tình”.
2. Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
Vận dụng và phát triển những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng vô sản kiểu mới do V.I.Lênin đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ yếu là:
a) Nguyên tắc tập trung dân chủ.
– Phải nhận thức rõ đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Tập trung và dân chủ luôn luôn đi đôi với nhau.
– Tập trung trên nền tảng phát huy dân chủ thật sự trong Đảng. Dân chủ là cơ sở của tập trung, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.
– Nội dung cơ bản của tập trung là: Thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương, tất cả mọi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của tổ chức Đảng.
– Nội dung cơ bản của dân chủ là: Phải mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng, làm cơ sở mở rộng, phát huy dân chủ ngoài xó hội.
– Đề phòng và chống các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, hách dịch, chụp mũ, trù dập ý kiến của người khác; đồng thời cũng cần đề phòng và chống những biểu hiện của dân chủ “quá trớn”.
b) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
– Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có quan hệ khăng khít với nhau, là hai vế làm thành một chỉnh thể thống nhất trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng.
– Tập thể lãnh đạo là để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người.
– Cá nhân phụ trách là để xác định rõ trách nhiệm thực hiện, nâng cao tinh thần và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân.
– Chống thói dựa dẫm tập thể, không dám làm, không dám chịu trách nhiệm; đồng thời chống độc đoán, cá nhân, coi thường tập thể.
– Việc thực hiện nguyên tắc này càng quan trọng trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền.
c) Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng:
– Mục đích của tự phê bình và phê bình là: Làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; làm cho các tổ chức Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh; để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức Đảng và đảng viên luôn luôn hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao cho.
– Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, như người ta rửa mặt hằng ngày.
– Tự phê bình phải thành khẩn. Thành khẩn, thành tâm, không “giấu bệnh sợ thuốc” sẽ giúp cho việc tự phê bình có kết quả tốt.
– Phê bình phải trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”.
– Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, “ráo riết”, không nể nang.
– Tự phê bình và phê bình phải có tính chất xây dựng “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
d) Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
– Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
– Tất cả mọi đảng viên đều phải chấp hành Điều lệ Đảng, bình đẳng trước mọi quyết định, nghị quyết của Đảng.
– Uy tín chung của Đảng và của mỗi đảng viên trong nhân dân bắt nguồn từ sự gương mẫu, tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của các tổ chức, đoàn thể nhân dân mà đảng viên đó tham gia.
đ) Đoàn kết, thống nhất trong Đảng
– Đoàn kết trong Đảng là truyền thống cực kỳ quý báu và là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng.
– Thực hiện đoàn kết là trách nhiệm của toàn Đảng. “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
– Đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải dựa trên nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, điều lệ, đường lối, quan điểm, nghị quyết của tổ chức đảng các cấp; “có lý, có tình “.
- Muốn đoàn kết, thống nhất, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác.

3. Quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng đáng “là đạo đức là văn minh”
– Xây dựng Đảng về mặt đạo đức là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển rất cơ bản và sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, phải quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng.
– Yêu cầu về phẩm chất, tư cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên gồm:
+ Suốt đời phấn đấu lý sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng.
+ Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết.
+ Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
+ Có đời tư trong sáng; là một tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân dân tin và noi theo.
– Yêu cầu về năng lực (tài) của cán bộ, đảng viên gồm:
+ Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
+ Cú mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
+ Luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt.
+ Phải có phong cách tốt, sau sát, tỉ mỉ.
4. Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân
– Đảng ta gắn bó với dân vì mục đích của Đảng là “Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc”.
– Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân, chứ không phải “dán lên trán hai chữ cộng sản” là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục.
– Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; phải  “… không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
– Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
5. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn
– Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân Đảng là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
– Trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới càng cần quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; là “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng…”.
– Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn trên những nội dung sau đây:
Một là, tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phương thức lãnh đạo, đạo đức, lối sống…
Hai là, luôn luôn chú ý đề phòng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất; giữ gìn Đảng thật trong sạch, vững mạnh. “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng…”.
Ba là, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ này luôn luôn toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Bốn là, Đảng phải vươn lên đáp ứng kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Để làm được việc đó, Đảng phải phát huy dân chủ trong nội bộ, phát huy và tập hợp được trí tuệ của toàn Đảng, phấn đấu thực sự trở thành “đạo đức, văn minh”.
Phần III. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững manh, "là đạo đức, là văn minh"
1. Suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo đến công tác xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, để Đảng hoàn thành sự nghiệp cách mạng của mình, thể hiện rõ trong các điểm sau:
– Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Chăm lo công tác xây dựng Đảng, xác định đúng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc dể Đảng hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, trong giai đoạn 1930-1945.
– Đề ra đường lối, chiến lược, sách lược và chèo lái con thuyền cách mạng trong điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp sau khi giành được chính quyền những năm 1945-1946 để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng.
– Cùng toàn Đảng xây dựng đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”; “thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược”; lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong phạm vi cả nước; cả nước xây dựng chủ nghĩa xó hội.
2. Luôn luôn gương mẫu rèn luyện phẩm chất, tư cách của một đảng viên, làm tròn mọi nhiệm vụ được Đảng giao phó
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng toàn diện, toàn mỹ của một đảng viên suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nổi bật nhất ở các điểm sau:
Một là, tấm gương tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Là lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, coi kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm minh và tự giác; coi trọng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng trong thực tế. Quan tâm đến việc mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng, Người đó gương mẫu thực hiện dân chủ đầy đủ và tích cực nhất trong sinh hoạt đảng. Người xác định rõ trách nhiệm cá nhân, nêu cao tinh thần “phụ trách” trước Đảng, trước dân tộc và nhân dân.
Hai là, tấm gương luôn luôn tự rèn luyện, trau dồi phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống, tác phong của một đảng viên. Đó là tấm gương luôn luôn giữ vững và trui rèn ý chí, quyết tâm cách mạng, là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”; trung thành với Đảng, với nước, hiếu với dân.
– Tấm gương khổ luyện, tiếp thu các giá trị văn hóa, tự hoàn thiện nhân cách, không ngừng học tập để có tri thức, nâng cao tầm trí tuệ.
– Tấm gương rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; lũng nhân ái bao la, trong sáng, thủy chung; lối sống giản dị, thiết thực, hòa đồng, làm chủ bản thân và luôn có khát vọng vươn tới những chuẩn mực của chân, thiện, mỹ.
– Tấm gương rèn luyện để có tác phong gần dân, hiểu dân, vì dân; gương mẫu trong cuộc sống hằng ngày.
Tấm gương sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó góp phần quan trọng vào kết quả của quá trình xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, bởi vì như chính Người đó quan niệm: “Ở các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Phần IV. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “Là đạo đức, là văn minh” trong giai đoạn hiện nay
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát triển. Để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm bắt thời cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ, nâng cao tầm trí tuệ. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, chung tay xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
Với nhận thức chung đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những nội dung, công việc chính sau đây.
1. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới
Đảng ta là Đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.
Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng.
Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “Đảng… phải có chủ nghĩa làm cốt”. Đảng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.
2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây đựng Đảng lả nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành
– Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thoái hóa, biến chất của tổ chức Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất ổn định chính trị – xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Toàn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các điểm sau:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc.
Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng xó hội mới là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gỡ đó cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” .
Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ dám làm,… không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.
Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”.
3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
– Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đó đề ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam xác định Hiến pháp và pháp luật là quyền lực tối thượng, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan trọng, thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Ngày nay, vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng mở rộng. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Cần quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và trung thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
4. Giải quyết tốt mối quan hệ với dân
–Tư Tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu nước vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng, cần được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các ngành.
– Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay gắt của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các “điểm nóng” liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh,… liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đó phản ánh sự không bình thường trong mối quan hệ máu thịt này.
– Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đó có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế,… để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của. Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.
– Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các ngành phải quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách được ban hành phải theo mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên,công chức phải là công bộc của dân, “vì nhân dân phục vụ”; các biện pháp thực hiện phải dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân… Điều quan trọng là mọi hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.
5. Tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng
Ngày 4-8-2009, Bộ Chính trị khóa X đó ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Chỉ thị số 37-CT/TW). Theo Chỉ thị, Trung ương Đảng đó quyết định tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI vào nửa đầu tháng 1-2011. Chỉ thị đó xác định các yêu cầu và nội dung tiến hành đại hội Đảng các cấp. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” phải trực tiếp phục vụ cho việc tổ chức tốt đại hội các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng.
– Trong Báo cáo chính trị trình đại hội các cấp phải gắn kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó để phát huy vai trò và gắn trực tiếp Cuộc vận động với nội dung tiến hành Đại hội.
– Trong việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội phải phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương, coi trọng chất lượng. Phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Tổ chức thật tốt việc thảo luận những quan điểm, chủ trương, định hướng lớn nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI và các văn kiện đại hội đảng bộ. Báo cáo của mỗi cấp bộ đảng trước đại hội cần tập trung vào những vấn đề quan trọng, cấp bách trước mắt và có ý nghĩa lau dài của địa phương, đơn vị. Tổ chức lấy ý kiến góp ý của các tầng lớp nhân dân về các văn kiện dự thảo.
– Nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu điểm, khuyết điểm, kết quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị; chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của những yếu kém, khuyết điểm và đề ra những biện pháp khắc phục.
– Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự bầu vào cấp ủy các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn chung quy định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, cần đặc biệt nhấn mạnh tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ được giao; uy tín trong Đảng và trong xó hội; cú tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý các vấn đề mới và vấn đề phức tạp mới nảy sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Vận dụng tốt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” trong tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XI có ý nghĩa rất thiết thực trong công tác xây dựng Đảng, trong thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay; đáp ứng được yêu cầu thang của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sự mong đợi của đông đảo cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân./.

             Ban Tuyên giáo Trung ương